Địa Lư Biển Đông
Home ] HoaKỳ TuầnTra Biển Đông ] CâyThuốc HoàngTrườngSa ] TàuCộng KhóThắng Biển Đông ] Tham-Luận Biển Đông ] TrungCộng GiởTṛ ĂnCướp Dầu ] Sơ-Đồ Cho Ngư-Dân ] CSVN KhôngBảoVệ BiểnĐảo ] MấtBiển MấtNước ] Chinese Landmen ] CôngỨơcLHQ-UNCLOS1982 ] Luật Biển VN ] TàiLiệu PhápLư ] BảnĐồ ThuyếtTŕnh 2012 ] BảnĐồChiếnLươc ThămḌDầuKhí ] Nh́n BảnĐồ-Xem Vùng ĐQKT ] HảiĐồ Dâng Giặc ] ÂmMưu SửaLưỡiḄ&LuậtBiển ] ÂmMưu SửaLuậtBiển&Nhuốt HoàngSa ] Một KếSách Philippines ] TiếnTŕnh TranhĐấu Hải-Phận ] Tàu TrungCộng Cắt Cáp Tàu ThămḌ VN ] Biển Đông 74,000 năm trước ] ToanTính của TàuCộng ] Vùng Biển Sâu Cho Tương-Lai ] Hải-phận Cho Quốc-Gia Lào ] Dự-Án Song-Tử ] Bài HộiLuận-LS NguyễnThành ] Hội NghiênCứu Biển ĐNÁ ] Kiện HQ Trung-Cộng ] Bản-Đồ Bắc TrườngSa ] BảnĐồ MalaysiaViệtNam ] HướngVề ĐấtNước 30-4 ] RVN-CDWR-Main Body.pdf ] Hải-Đồ 1 Triệu km2 ] CôngƯớc LuậtBiển1982 Tiếng Việt ] BảnĐồ DiSản VNCH ] Nước Việt H́nh Chữ S ] ThaoMocHoangSaTruongSa.pdf ] [ Chương1-6 ] Chương7-11 ] Chương12-15 ] Chương16 Kết luận ] TiểuSử TácGiả ]

 

Kính thưa Quư Độc-giả Việt-Nam,

Chúng tôi nghĩ rằng sách "Địa Lư Biển Đông" này mang một số lư-lẽ vững-vàng về địa-lư, có thể sử-dụng để tranh-đấu cho chủ-quyền Việt-Nam 1 triệu km2  trên Biển Đông.

Kính mời Quư độc-giả đọc "Địa Lư Biển Đông", duyệt-xét và vui ḷng đóng góp những ư-kiến để chúng ta cùng sửa-chữa cho cuốn sách đươc hoàn-bị hơn, dễ phổ biến hơn đến mọi người .

Chúng tôi rất mong người dân Việt-Nam trong nước được tự-do thu-nhặt những kiến-thức này.

Xin chân-thành cảm-tạ trước mọi nỗ-lực đóng góp để cuốn sách được in lại bằng Việt-ngữ và Anh-ngữ như là "một vũ-khí bảo toàn đất biển Tổ-tiên".

Kính, Vũ-Hữu-San

vuhuusan@yahoo.com

1- BIỂN ĐÔNG CỦA BÁU NƯỚC TA.

Nước Việt-Nam nằm cạnh Biển Đông. Lănh-thổ và hải-phận Biển Đông là tài-sản tiền-nhân để lại cho dân-tộc ta.

 

1.1- CỦA BÁU CỦA MỘT NƯỚC.

"Của báu của một nước, không ǵ quư bằng đất đai: nhân-dân và của cải đều do đấy mà sinh ra". Đó là câu sử-gia Phan-Huy-Chú dùng mở đầu cho "Quyển 1 - Địa-dư-Chí". Toàn tập sách có nhiều quyển, được hoàn-thành năm 1820 mang tên là "Lịch-Triều Hiến-chương Loại-chí". Ngày nay, danh-từ được nói một cách tổng-quát là "đất đai" như vậy cần kể thêm cả vùng trời và nhất là vùng biển bao la rộng lớn vây quanh nữa.

Hoàng-Sa mất, Trường-Sa đang bị xâm-lăng.

Năm 1974, quần-đảo Hoàng-Sa lọt hoàn-toàn vào tay Trung-Cộng.

Năm 1988, tức là sau đó 14 năm, nhiều vùng của Trường-Sa đă bị ngoại-lai xua quân xâm-lấn trắng trợn, đánh ch́m tàu Việt-Nam, chiếm cứ hàng loạt hải-đảo của ta.

Năm 1994, Trung-Cộng ngang ngược ngăn-chặn cả việc khai-thác dầu khí ngay trên thềm lục-địa Việt-Nam, chèn ép phái-đoàn Việt-Nam vào những thoả-ước song-phương có lợi cho chúng.

Năm nay 1995, cơ-nguy hoàn-toàn mất tất cả các đảo ngoài Biển Đông cũng có thể không c̣n xa!

V́ nước nào có địa-phận nước ấy, người dân có bổn-phận giữ ǵn lănh-thổ cho được nguyên vẹn. Bờ cơi nước ta xưa nay bao gồm hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa. Chính-quyền nào của Việt-Nam cũng phải dồn nỗ-lực cho công-tác bảo-vệ di-sản của tiền-nhân. Ngoài việc pḥng-thủ những đảo c̣n lại, quốc-sách cần bao gồm các kế-hoạch tái-lập chủ-quyền quốc-gia trên các đảo đă mất. Phần chính kế-hoạch này được bảo-mật nhưng phần chuẩn-bị cho kế-hoạch như huấn-luyện, điều-hành, tiếp-vận, tâm-lư-chiến, t́nh-báo, vận-động ngoại-giao v.v... phải phổ-biến đến mọi lực-lượng quân-sự, dân-sự, các cơ-sở ngoại-giao, hành-chánh... liên-hệ để tất cả sẵn sàng phối-hợp thi-hành ngay khi có cơ-hội thuận-tiện.

Dù sao chăng nữa, đi trước tất cả những kế-sách đó, mọi người Việt-Nam chúng ta cần được "trang-bị" ngay những kiến-thức địa-dư căn-bản về hai quần-đảo trên. Ư-nghĩ sắp-xếp công việc ưu-tiên như vậy cũng là ư của người xưa. Sử-gia Phan-huy-Chú đă quyết-định ấn-hành chương "Dư-địa-chí" trước 9 chương khác là Nhân-vật-chí, Quan-chức-chí, Lễ-nghi-chí, Khoa-mục-chí, Quốc-dụng-chí, H́nh-luật-chí, Binh-chế-chí, Văn-tịch-chí và Bang-giao-chí. Ông viết một câu xác-đáng như sau: "... Vậy trước hết phải khảo-cứu những điều cốt yếu về bờ cơi lúc chia lúc hợp, núi sông chỗ hiểm, chỗ bằng, làm ra Dư-địa-chí chép lên đầu".

Cùng trong nhận-thức như vậy, nhiều học-giả Việt-Nam trước đây đă từng nói là "chính-quyền nên đem ngay vấn-đề Hoàng-Sa Trường-Sa vào trong chương-tŕnh giáo-dục học-đường, hành-chánh và quân-sự" (Nguyễn-Nhă, Đặc-san Sử-Địa số 29, 1975: 9.) Điều đề-nghị hợp-lư này đă được đưa ra từ hơn 20 năm về trước, xem ra chính-quyền lúc đó và cả chính-quyền ngày nay nữa cũng không mấy lưu-tâm.

 

 

H́nh 1- Biển Đông với Hoàng-Sa, Trường-Sa và một số địa-danh quan-trọng.

 

 

Người Việt-Nam không muốn bị ngoại-bang bắt nạt, xâm-lấn. Dân ta chỉ tiến-bộ và nước ta chỉ phú-cường với một nền giáo-dục khai-phóng. Có lẽ v́ thiếu tài-liệu để đọc, không mấy người dân trong nước nắm vững được những diễn-biến quân-sự ngoài Hoàng-Sa Trường-Sa. T́nh-trạng c̣n mất, hiểm-nguy ngoài Biển Đông nếu bị bưng bít, chỉ có hại cho tiền-đồ Tổ-Quốc mà thôi.

Khi viết sách này, không những chúng tôi đă đi ra ngoài khuôn-khổ giáo-khoa mà c̣n muốn lạm-bàn thêm nhiều chuyện diễn-biến cận-đại. Lại nhằm lúc không-khí chiến-tranh đang đe dọa bao trùm Biển-Đông, nên dù bài viết mang nhan-đề "Địa-lư Biển Đông với Hoàng-Sa và Trường-Sa nhưng nhân cơ-hội, chúng tôi đă ghi thêm vào vài nét "chấm-phá" về địa-lư quân-sự. Sách viết cũng không nhằm việc tranh-căi chủ-quyền lănh-thổ trên trường quốc-tế nhưng v́ sự tranh-chấp lănh-hải hiện đang trong hồi quyết-liệt, chúng tôi cũng ước-lượng một số đường ranh giới về hải-phận theo với luật-pháp quốc-tế hiện-hành.

Trong vài trường-hợp ư-kiến chúng tôi đi hơi quá xa. Có thể những quan-niệm riêng rẽ của cá-nhân như vậy sẽ không được dùng khi mang ra tranh-tụng trên bàn thương-thảo quốc-tế. Tuy vậy các bản-đồ về ranh-giới hải-phận không phải hoàn-toàn giả-tưởng, ít nhiều chi-tiết sẽ là những mấu chốt suy-luận trợ giúp cho việc giải-đáp một số câu hỏi rắc rối về pháp-lư sau này.

 

 

1.2 – TÀI-LIỆU ĐỊA-DƯ, NHỮNG YẾU-TỐ CHÍNH-XÁC.

Tài-liệu địa-lư cũng như các tài-liệu khoa-học khác, cần chính-xác.

 

1.2.1 – SỰ CHÍNH-XÁC TRONG TÀI-LIỆU ĐỊA-LƯ.

Những tài-liệu về địa-lư kể cả hoạt-động quân-sự dùng nơi bài viết này đă được chúng tôi lấy từ các thư-viện công-cộng vùng Bắc California, ai muốn đọc đều được. Dù sao chúng tôi cũng rất tự-chế mà không bàn đến các yếu-tố chiến-lược, chiến-thuật nếu xét rằng các yếu-tố này có thể nguy-hại đến an-ninh lănh-thổ, nhân-mạng Việt-Nam...

Cho dù đă cố gắng sưu-tầm tài-liệu, chúng tôi không tránh khỏi khuyết-điểm và nhầm lẫn khi tŕnh-bày những kiến-thức tương-đối mới lạ này, xin quư-vị lượng-thứ. Và... nhân-tiện đây cũng xin kêu gọi tất cả người Việt chúng ta cùng giúp nhau cẩn-trọng trong vài vấn-đề như sau:

- Địa-danh. Về phương-diện này, học-giả Vơ-Long-Tê đă đặt vấn-đề từ hai thập-niên trước đây (Phương-diện Địa-danh-học của hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa, Sử-Địa số 29, năm 1975: 215-220.) Những địa-danh như Tây-Sa, Nam-Sa, Vĩnh-Lạc v.v... của Trung-Hoa nên được sử-dụng một cách thận-trọng khi đề-cập đến chủ-quyền Việt-Nam. Như lời ao-ước của ông Vơ-long-Tê, chúng tôi cũng mong mỏi một ngày nào, sẽ được đọc tất cả địa-danh trong Biển Đông theo "đặc-danh thuần Việt". Nếu giới hữu-quyền Việt-Nam lại tôn-trọng Luật Biển quốc-tế và quy-ước hải-hành mà xác-định được đảo ra Đảo, đá ra Đá, băi nông, băi ngầm v.v... th́ thật hay!

Những bản-đồ hay hải-đồ Biển Đông đầy đủ địa-danh Việt-Nam như vậy, đi kèm với những chi-tiết cần-thiết cũng làm chúng ta hănh-diện với người nước ngoài và nhiều ít đóng góp thêm tài-liệu pháp-lư trong sự tuyên-bố chủ-quyền của dân ta trên biển.

Qua các tài-liệu trước đây, v́ chúng tôi nhận ra những con số sai-lạc nên đă tự-ư dùng các hải-đồ khả-dụng ngày nay để ước-lượng cùng sửa chữa lại cho gần với thực-tế hơn. Tuy vậy, vài con số mà chúng tôi đưa ra trong tài-liệu này chỉ là những ước-lượng (một cách phỏng-định) do cá-nhân chúng tôi đơn-độc làm lấy nên có thể c̣n lầm-lẫn. Mong rằng các cơ-quan thẩm-quyền về đo đạc đưa ra những con số chính-xác làm tiêu-chuẩn sau này. Chỉ bằng cách công-bố những dữ-kiện, yếu-tố thật đúng đắn; những tập tài-liệu của chúng ta mới tạo được uy-tín cho Việt-Nam trên bàn tranh căi quốc-tế .

Đơn-cử sau đây là những "con số" điển-h́nh mà chúng tôi đă ước-lượng:

-Khoảng cách gần nhất từ quần-đảo Hoàng-Sa và đất liền Việt-Nam:

a- Đến Cù-lao Ré 123 hải-lư (hl.)

b- Đến đất liền Quảng-Ngăi 135 hải-lư.

Các tài-liệu Việt-ngữ đều cho những khoảng cách này xa hơn nhiều. Thường khoảng cách quần-đảo / đất liền hay được tính từ Hoàng-Sa tới Đà-Nẵng: là trên 200 hải-lư.

-Chiều dài bờ biển Việt-Nam thường được ghi là 2500km, hay có khi giản-tiện là 2 ngàn cây-số. Những độ dài này quá ngắn so với sự thực. Chúng tôi ước-lượng lại bằng cách lấy thước đo kéo dài theo duyên-hải và thấy con số đạt tới hơn 5,000km. Luật-gia Mark J. Valencia của East-West Center, Honolulu, khi tham-khảo tài-liệu, đă đưa ra một con số c̣n lớn hơn nữa: 2,828 hải-lư tức 5,237km đường ven biển. (Vietnam's National Interests and the Law of the Sea, báo Ocean Development and International Law, Vol 23, April/June 1994, pp 217-250.)

-Vị-trí biển Trường-Sa thường chỉ kể tới vĩ-độ 8.00 Bắc, chúng tôi đề-nghị ghi theo một số các tài-liệu quốc-tế cho rộng xuống phía Nam ít nhất 240 hải-lư nữa, tới vĩ-độ 4.00' Bắc. Trung-Cộng đă vẽ bản-đồ với vùng biển mà họ tự cho là có chủ-quyền xuống đến vĩ độ 3.20' Bắc. Tin tức năm 1993 cũng loan-tin họ thăm-ḍ dầu-hỏa trên băi cạn James Shoal (vĩ-độ 3.58' Bắc, kinh-độ 112.15' Đông.)

-Diện-tích và chiều cao của các đảo. Sự sai biệt có lẽ quá lớn ở những trị-số này. Các đảo thuộc Hoàng-Sa / Trường-Sa thường được ghi diện-tích tới nhiều cây số vuông. Sự thực, các đảo ngoài khơi Biển Đông rất nhỏ và riêng ở vùng Trường-Sa không có đảo nào lớn tới nửa cây số vuông. Về cao-độ, các đảo cũng hay được ghi quá cao như đảo Nam-Yết tới 20m (hay 61 ft) chẳng hạn. Tuy Nam-Yết đúng là đảo cao nhất trong quần đảo Trường-Sa nhưng đỉnh của đảo cũng chỉ vượt lên khỏi mặt biển chừng 5m mà thôi! Có thể một vài cây nhàu, cây bàng biển vươn lên trên mặt đảo khoảng 5, 7 thước nữa, nhưng thật ra không thể làm cao-độ của đảo tăng lên nhiều quá đến như vậy. Tàu bè phải tới thật gần mới nhận ra được những ḥn đảo ngoài biển Đông.

-Tổng-số các đảo. Tổng-số các đảo (island), đụn (dune), cồn (cay), đá (rock), băi cạn, băi ngầm (bank, shoal, reef.).. thuộc Hoàng-Sa, nếu không đúng hệt như sách cổ Việt-Nam đă ghi là 130 th́ cũng phải kể đến con số hàng trăm. Không thể v́ lư-do không liệt-kê được hết các địa-danh mà người ta ghi một số lượng quá nhỏ. Chẳng hạn như nói "Tây-Sa 7 đảo, 9 đảo", kiểu như danh-từ "Thất-châu", "Cửu-châu" của Tàu dùng để gọi quần-đảo Hoàng-Sa trước đây. Trường-hợp ở quần-đảo Trường-Sa, số lượng đơn-vị đất đá như vậy c̣n lớn hơn nhiều. Những tài-liệu địa-chất viết: "quần-đảo Trường-Sa gồm có 9 đảo" (Đặc-san Sử-Địa số 29, trang 31) đă đưa ra một con số quá khiêm-tốn.

Chúng tôi xin nghiêng về sự ước-lượng "một cách tỉ-mỉ" với những con số lớn lao hợp-lư hơn, thay cho các số nhỏ bé vẫn dùng trong các tài-liệu địa-lư Việt-ngữ, Hoa-ngữ xưa nay.

Đơn-vị đất (land masses) đă được một số học-giả như Michael Bennett sử-dụng. Con số ước-lượng có tới 500 "đất" cho hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa (Stanford Journal of International Law, No 28, Spring 1992, p 423.) Trong số đó, khoảng 100 đơn-vị đă được đặt tên.

 

1.2.2- YẾU-TỐ CHÍNH-XÁC DÙNG TRONG LUẬT BIỂN.

Tổng-số đảo hay đá, diện-tích và chiều cao của đảo hay đá cũng như chu-vi đảo, diện-tích lănh-thổ, chiều dài bờ biển, tỷ-lệ bờ biển/ đất liền v.v... là những con số dùng để tính-toán trong việc quy-định các loại hải-phận theo Luật Biển LHQ ngày nay.

Trong tương-lai cận kề, mọi quốc-gia dù chống đối hay đồng-ư việc thi-hành Luật Biển Liên-hiệp-Quốc cũng đều sẽ chịu ảnh-hưởng chi-phối trực-tiếp hay gián-tiếp của những điều-luật này. Trong các sách viết về Luật Biển, thường là rất dầy, có những điều khoản ấn-định ranh giới hải-phận dựa trên vị-trí và t́nh-trạng các đảo, cồn, đụn, đá ...; nghĩa là những đơn-vị đất đá "land masse" phù-hợp theo một số điều-kiện quy-định.

Số lượng nhiều ít "land masses" là một chuyện, quốc-gia chủ-quyền sẽ phải xác-định những đơn-vị nào đủ điều-kiện như một "ḥn đảo" và "ḥn đá", nghĩa là "thường-trực nổi lên mặt biển (permanently above sea level) ngay cả khi thủy-triều dâng lên tối đa. Đảo được kể theo pháp-lư như đất liền, kể cả hải-phận kinh-tế 200hl.

Đá chỉ có lănh-hải 12hl mà thôi. Đá giống đảo là nổi lên mặt biển thường-trực nhưng nhỏ bé và cằn cỗi, con người không thể sinh sống được. Điều-kiện này rất khó xác-định nên đă gây ra nhiều tranh-luận.

Tổng-số đảo hay đá, vị-trí, diện-tích và chiều cao của đảo hay đá cũng như chu-vi đảo, diện-tích lănh-thổ, chiều dài bờ biển, tỷ-lệ đất/ biển v.v... là những con số dùng để tính-toán trong việc quy-định các loại hải-phận theo Luật Biển LHQ ngày nay.

Tại vùng quần-đảo Trường-Sa, các "đơn-vị đất" được ước-lượng trong khoảng từ 300 đến 400. Dựa vào những tài-liệu địa-lư hiện-hữu, Viện Nghiên-Cứu Đông-Tây ở Hawaii cho rằng chỉ có 33 đơn-vị thường-trực nổi lên mặt biển, gồm có 26 đảo và 7 đá.

Bản-đồ Hoàng-Sa Trường-Sa với địa-danh cùng một số chi-tiết khác nữa xin được tŕnh-bày trong những phần sau.

 

DANH-SÁCH CÁC ĐẢO VÀ ĐÁ TRƯỜNG-SA

thường-trực cao hơn mặt biển

 

Tên ghi trên hải đồ

Tên Việt-ngữ

Tọa độ

Quốc-gia cđ

Độ cao

 

TÊN ĐẢO (26)

 

 

 

 

ALICIA ANNIE REEF

Đá Suối Ngọc

09 25 N 115 25 E

 

C- 1.2m

AMBOYNA CAY ISL

Đảo An Bang

07 51 N 112 55 E

VN cđ

C- 2m

COMMODORE REEF

Đá Công Đo

08 20 N 115 25 E

Phi cđ (Rizal)

C- .3m

FLAT ISLAND

Đảo B́nh Nguyên

10 48 N 115 50 E

Phi cđ (Patag)

I-

GAVEN REEF

Đá Ga Ven

10 12 N 114 14 E

TC cđ (Nam Xun Jia)

D- 2m

GRIERSON REEF

Đá Grierson

09 53 N 114 35 E

VN cđ (cạnhSh-Tôn Đ)

C-

IRVING REEF

Đảo Cá Nhám

10 55 N 114 56 E

 

C-

ITU ABA ISLAND

Đảo Ba B́nh

10 23 N 114 21 E

Đài-Loan cđ

I- 4.8m

LANKIAM CAY

Đảo “Lankiam”

10 43 N 114 31 E

Phi cđ (Panata)

C-

LEN DAO (Lansdown Reef)

Đảo Len

09 46 N 114 22 E

VN cđ

D-

LOAITA CAY (Losita Nan)

Đá Loại Ta

10 41 N 114 25 E

(cạnh đ. Loại-ta)

C-

LOAITA ISLAND

Đảo Loại Ta

10 41 N 114 25 E

Phi cđ (Kota)

I- 2m

MARIVELES REEF

Đá Kỳ Vân

07 59 N 113 50 E

Malesia cđ

C- 1.5m

NAMYIT ISLAND

Đảo Nam Yết

10 11 N 114 22 E

VN cđ

I- 5m

NANSHAN ISLAND

Đảo Vĩnh Viễn

10 43 N 115 49 E

Phi cđ (Lawak)

I- 2.5m

NORTH EAST CAY

Đảo Song Tử Đông

11 27 N 114 21 E

Phi cđ (Parola)

C- 3m

PEARSON REEF NE

Ḥn Síp (Ḥn Sáp?)

08 58 N 113 40 E

VN cđ

C- 2m

PEARSON REEF SW

Ḥn Sáp (Ḥn Síp?)

08 55 N 113 35 E

VN cđ

C- 1m

SAND CAY

Đảo Sơn Ca

10 23 N 114 28 E

VN cđ

C- 3m

SANDY CAY

Đảo “Sandy”

11 03 N 114 13 E

 

C-

SIN COWE ISLAND

Đảo Sinh Tồn

09 51 N 114 22 E

VN cđ

I- 2.5m

SOUTHWEST CAY

Đảo Song Tử Tây

11 26 N 114 19 E

VN cđ

C-

SPRATLY ISLAND

Đảo Trường Sa

08 38 N 111 55 E

VN cđ

I- 2.5m

THI-TU ISLAND

Đảo Thị Tứ

11 03 N 114 17 E

Phi cđ (Pagasa)

I-

WEST REEF(Thuộc LondonRf)

Đá Tây

08 51 N 112 12 E

VN cđ

C- .6m

WEST YORK ISLAND

Đảo Bến Lộc

11 05 N 115 01 E

Phi cđ (Licas)

I-

 

TÊN ĐÁ (7)

 

 

 

 

BARQUE CANADA SHOAL

Băi Thuyền Chài

03 12 N 113 19 E

VN cđ

R- 4.5m

DISCOVERY GREAT REEF

Đá Lớn

10 01 N 113 51 E

VN cđ

R-

EAST REEF (Thuộc London Rfs)

Đá Đông

08 49 N 112 33 E

VN cđ

R- .6m

FIERY CROSS REEF

Đá Chữ Thập

09 38 N 112 57 E

TC cđ (Yung Shu Jiao)

R-

LOUISA REEF

Đá Louisa

06 00 N 113 16 E

 

R- 1.0m

ROYAL CHARLOTTE REEF

Đá Sắc Lốt

07 00 N 113 35 E

 

R- .6m

SWALLOW REEF

Đá Hoa Lau

07 22 N 113 49 E

Malesia cđ

R- 1.5m

 

*Chữ viết tắt; cđ=chiếm đóng (có quân trú-pḥng), VN=Việt-Nam, TC-Trung-Cộng.

*Đảo được tính chủ-quyền hải-phận và vùng kinh-tế EEZ (200 hl). Đá chỉ tính lănh-hải 12 hl.

*Tài-liệu lấy trong Ocean Yearbook 10, 1993 liệt-kê thành 3 loại: (9) Island, (15) Cay, (2) Dune, (7) Rock; viết tắt là I, C, D, R

 H́nh 2 -.Bảng liệt-kê các đảo và đá thuộc quần-đảo Trường-Sa.

 

 

2 – BIỂN ĐÔNG XƯA, MAI VÀ NAY.

Biển Đông đă thay h́nh đổi dạng nhiều lần trong quá-khứ.

 

2.1 – BIỂN ĐÔNG QUÁ-KHỨ, CÁI NÔI VĂN-HÓA, TRUNG-TÂM PHÁT-NGUYÊN HÀNG-HẢI.

Ngày nay nh́n vào bản-đồ Đông-Nam-Á, chúng ta thấy Biển Đông là một vùng biển gần như nội-địa, diện-tích bằng 4 phần 5 Địa-trung-Hải. Trong quá-khứ cách nay vài chục ngàn năm cho tới vài trăm ngàn năm là thời-gian mà khoa-học có nhiều dữ-kiện tương-đối chính-xác, h́nh-dạng Biển Đông hoàn-toàn khác hẳn và thông thường nó nhỏ bé hơn bây giờ khá nhiều. Một số nhà nghiên-cứu cho rằng sự thay đổi về địa-lư Biển Đông không những chỉ làm thay đổi môi-trường sinh-sống của sinh, thực-vật trên đất, dưới biển trong vùng mà c̣n tạo-dựng lên cả một cuộc biến-đổi lớn làm phát-sinh những nền văn-minh quan-trọng về nông-ngư-nghiệp cùng hàng-hải có thể gọi là tiền-tiến vào bậc nhất của nhân-loại.

Đă có nhiều nhà khoa-học cố gắng giải-thích sự h́nh-thành nền văn-hóa hàng-hải của dân Việt nói riêng và của dân Đông-Nam-Á nói chung. Những sắc-thái đặc-thù này khác-biệt hẳn với sắc-thái văn-hóa hoàn-toàn lục-địa của Trung-Hoa. Một số lư-thuyết được tóm tắt như sau:

Trong lịch-sử trái đất, mực nước biển đă dâng lên hạ xuống nhiều lần, sự sai-biệt có tới 150m. Cách nay chừng 18,000 năm, diện-tích Biển Đông chỉ bằng phân nửa hiện nay. Khi băng đá hai cực địa-cầu tan ră th́ nước biển dâng lên nhanh. Dân-cư vùng duyên-hải vốn sống bằng cách thu-lượm tôm cá, ṣ ốc phải dồn về những vùng cao hơn. Cho đến khoảng 4,000 năm trước Tây-lịch (TTL), hàng trăm ngàn dậm vuông lục-địa đă bị ngập dưới Biển Đông. V́ diện-tích đất đai bị suy-giảm nên mật-độ dân-số gia-tăng. Nhiều sự tiếp-xúc, trao đổi, va chạm giữa những giống người khác nhau đă xảy ra. Lúc xưa dân-cư sống rải rác khắp nơi trong vùng đất thấp rộng lớn Sunda, nay cùng gặp nhau trong một môi-trường sinh-hoạt mới vùng đồi núi. Tiến-bộ khởi-sự từ đó.

 

H́nh 3- H́nh-thể Biển Đông cuối thời Băng-đá (hay Băng-giá.) Theo ư-kiến của một số nhà khảo-cổ, dân-cư từ vùng Sunda (kể cả Hoàng-Sa, Trường-Sa) chạy lên các vùng cao.(The Southeast Asian World, Keith Buchanan, New York, 1967, trang 45)

 

- Chester Norman cho rằng nền Văn-minh Ḥa-B́nh được tạo-dựng trong thời-gian thềm lục-địa Sunda bị ngập nước. Khi đó vịnh Bắc-phần và vịnh Thái-Lan mà lúc trước là hai vùng đồng-bằng trũng, nay cũng thành-h́nh.

Từ nhiều ngàn năm trước, người dân thuộc nền văn-hóa Hoà-B́nh ở miền Tây Biển Đông chỉ sống bằng cách săn-bắn, hái-lượm và trồng trọt ruộng khô trong những vùng thung-lũng. Bỗng nhiên mật-độ dân-cư tăng lên nhanh, con người phải có phương-pháp mới để sản-xuất thêm thực-phẩm. Loài trâu, loài heo được gia-súc-hóa.

Người ta di-chuyển từ thung-lũng xuống khai-phá đồng-bằng. Yếu-tố quan-trọng nhất của đà phát-triển là sự ra đời của các giống cây cho hạt. Những loại ngũ-cốc thuần-hóa sau này thích-hợp cho ruộng nước. Khoảng 5,500 năm trước, cây lúa đă được trồng trọt. (The Hoabinhian and After: Subsistence Patterns in Southeast Asia during the Late Pleistocene and Early Periods, báo World Archaeology 2, No. 3, 1971: 300-320)

Lư-thuyết Norman cho rằng một số lớn dân Đông-Nam-Á khởi-sự trước hết bằng cuộc sống ở duyên-hải, sau này hội-nhập với dân-cư vùng cao-nguyên nhưng rồi trở về lại vùng đồng-bằng gần biển, sau nữa phát-triển về hàng-hải.

- Wilheim G. Solheim cho rằng 6,000 năm trước, dân Đông-Nam-Á đă mạo-hiểm ra khơi v́ nhu-cầu di-chuyển. Gió băo và hải-lưu của Biển Đông và Thái-b́nh-Dương đă cuốn trôi một số người tới Nhật-Bản, trong khi các nhóm khác bị quét sang Phi-luật-Tân, Nam-Dương và Melanesia. Tiếp theo, những toán dân-chúng di-chuyển tới các đảo ngoài khơi Thái-b́nh-Dương và sang Madagascar.

Bàn rộng hơn thế nữa, cũng theo Solheim, Biển Đông của Đông-Nam-Á thời cổ c̣n là nơi phát-sinh những đường hàng-hải giao-tiếp với các nơi ở dọc biển Á-châu, Âu-châu, Phi-châu, Đại-dương-châu và cả Mỹ-châu. Solheim lư-luận rằng chỉ có sự kiện Đông-Nam-Á giữ vai-tṛ trung-tâm phân-tán như trục một cái bánh xe toả nan-hoa ra khắp nơi mới giải-thích được hiện-tượng lịch-sử là tại sao các chủng-tộc khác-biệt của loài người sống xa cách nhau trên khắp thế-giới lại có nhiều sự tương-đồng về sinh-hoạt văn-hóa như vậy! ("World Ethnographic Sample..." A Possible Historical Explanation, báo American Anthropologist 70, 1968: 569.)

Cùng nhận-định như Solheim nhưng đi trước ông tới 40 năm, nhà ngữ-học Pháp Paul Rivet đă làm nhiều cuộc nghiên-cứu và kết-luận rằng: "Từ vùng Đông-Nam Á-châu, một thứ ngôn-ngữ đă được truyền-bá đi bằng đường hàng-hải đến Nhật-Bản, Tasmania, Địa-trung-hải, Phi-châu và Mỹ-châu". (Sumerien et Océanien, Collection Linguistique, Paris, 1929.

 

 

H́nh 4 - Quan-niệm truyền-bá ngôn-ngữ ĐNÁ đi khắp thế-giới theo đường hàng-hải, khởi-sự từ Biển Đông (Paul Rivet, 1929.)

 

- William Meacham khi nghiên-cứu bản-đồ địa-h́nh đáy biển, cho biết lúc xưa bờ Biển Đông tương-đối bằng phẳng. Khoảng 14,000 năm trước đây, bè tre đă xuất-hiện. Rồi nước biển cứ cao dần. Khi mực nước biển gần đạt đến mức-độ như hiện nay, chừng -25m, bờ biển đă lùi sâu vào lục-địa, gặp đúng chỗ địa-thế lởm chởm, lồi lơm. Nhiều nhóm người sống trên các hải-đảo. Sự liên lạc, di-chuyển bằng thuyền bè trở nên càng ngày càng cần-thiết hơn. Các trở ngại, khó khăn trên biển đă thúc-đẩy con người phải phát-minh ra những cánh buồm, những bánh lái, những loại thuyền nhiều thân và những cơ-phận điều-khiển khác để việc hải-hành được an-toàn hơn, tránh bị thổi ra ngoài khơi. (Origins and Development of the Yueh Coastal Neolithic trong The Origins of Chinese Civilisation, University of California Press, 1983: 147-175.)

 

Meacham tin rằng 6,000 - 4,000 năm trước Tây-lịch, những nền văn-minh vùng châu-thổ sông Hồng bắt đầu nảy nở. Đồ gốm đă được nặn trên bàn xoay ở Đậu-Dương. Khoa khảo-cổ cũng t́m thấy dây câu, lưới bắt cá và thuyền độc-mộc. Nhiều dân-cư sống bằng ngư-nghiệp. (4,000 năm TTL..)

 

H́nh 5- Bờ biển lúc xưa phẳng-phiu, nay lởm chởm lồi lơm.

 

 

-Carl Sauer duyệt-xét những biến-chuyển về địa-lư Biển Đông trong thời-khoảng mười mấy ngàn năm trước đây, đưa ra kết-luận về tinh-thần tiến-bộ của cư-dân người Việt (Yueh) thời cổ như sau: "Mực nước Biển Đông dâng cao làm tăng thêm nhịp bồi-đắp phù-sa lên những khu thung-lũng duyên-hà trong khi các vùng đất thấp tiếp-tục bị lụt. Dân-cư khi xưa sống rải rác th́ lúc này thu lại thành các vùng cư-trú dọc theo nguồn nước... Một thế-giới mới đă thành-h́nh, sự thay đổi môi-trường vật-lư địa-dư đă trở thành cơ-hội thuận-tiện tối đa cho những dân thích phiêu-lưu và mong tiến-bộ... Người dân bỏ sự nhàn rỗi và nhờ trí-óc ṭ-ṃ để t́m thử-nghiệm, một cộng-đồng như vậy chỉ cần một thời-gian ngắn để chuyển-tiếp từ ngư-nghiệp sang thẳng nông-nghiệp (environment and Culture During the Last Deglaciation, trong Proceedings of the American Philosophical Society 92.1: 65-77.)

Cùng với Meacham, Sauer ư-thức tầm quan-trọng của ngư-nghiệp và hàng-hải trong tiến-tŕnh văn-minh Đông-Á thời cổ. Khác biệt hẳn với các nơi khác trên thế giới, Biển Đông và vùng đất chung-quanh có tới hai vụ gió mùa trong một năm, nên hoàn-cảnh rất thuận-lợi cho sự phát-triển các ngành nông-nghiệp, ngư-nghiệp và hàng-hải. (Agricultural Origins and Dispersals, Series Two, New York 1952: 24-25.)

V́ Biển Đông có hai vụ gió mùa nên việc hải-hành viễn-duyên khi đi cũng như khi về rất tiện-lợi. Hàng-hải phát-triển kéo theo sự bành-trướng thương-mại. Sự trao đổi hàng-hóa nâng cao kỹ-thuật chế-tạo phẩm-vật.

 

- Charles F. Keyes viết trong sách "The Golden Peninsula" (New York, 1977) rằng Việt-Nam là nơi phát-khởi nền văn-minh Hoà-B́nh trải rộng khắp Đông-Nam-Á. Keyes đă xác-định hai điểm sau:

* Quá-tŕnh văn-hóa thời tiền-sử của toàn vùng Đông-Nam-Á thường được chia ra làm những giai-đoạn mà chỉ-danh từng giai-đoạn lấy từ địa-danh các vị-trí khảo-cổ tiêu-biểu nhất như Ḥa-B́nh, Bắc-Sơn, Đông-Sơn; tất cả đều nằm trong Bắc-phần Việt-Nam (trang 182.)

* Thời-đại Đồ Đồng xuất hiện vào khoảng 3,000 đến 2,500 năm TTL. ở Đông-Nam-Á, nghĩa là khởi-sự sớm hơn Trung-Hoa và Ấn-Độ. Biểu-tượng chính của nền văn-minh này là những Trống Đồng t́m thấy ở nhiều nơi xa xăm như Sulawesi thuộc Nam-Dương quần-đảo. Những trống đồng như vậy đều được đúc tại vùng đất Đông-Sơn nhỏ hẹp của Việt-Nam, từ đó trống được phân-phối đi khắp Đông-Nam-Á theo đường hải-thương (trang 16.)

H́nh 6 - Trống Đồng ghi-dấu khắp nơi ở Đông-Nam-Á (Trống Đông-Sơn, Viện Khảo Cổ Học, Hà Nội 1987, trang 131.) Lưu-ư vị-trí Đông-Sơn với Hoàng-Sa và Trường-Sa.(trong hai ṿng tṛn.)

 

2.2 – BIỂN ĐÔNG TƯƠNG-LAI, LĂNH-HẢI THÀNH LĂNH-THỔ.

Xem xét qua các lư-thuyết như vậy, những nhận xét sau đây đáng được nêu ra:

-Biển Đông và Việt-Nam không những chỉ có liên-hệ trong thời hữu-sử mà sự liên-hệ mật-thiết c̣n phải kể từ thuở xa xưa hơn vào thời tiền-sử.

-Nước Biển Đông khi lên khi xuống, tuy đôi lúc làm giông-băo cuồng-loạn thổi trôi người vật, nhà cửa ra biển nhưng luôn luôn là cái nôi hiền dịu, thai-nghén và ấp-ủ văn-minh nông-nghiệp và hàng-hải của dân Việt.

H́nh 7- Mực nước biển lên xuống trong quá-khứ. Nếu không có ǵ thay đổi, nước Biển Đông sắp bắt đầu khô cạn trở lại.

 

-Nước Biển Đông đă lên đến mức tối-đa. Khoảng chừng ngàn năm trở lại đây, nhiều nơi tại vùng châu-thổ sông Hồng-Hà và Cửu-Long-giang từng bị ngập nước. Đôi khi nước biển có thể đă dâng cao hơn hiện thời.

Trong một vài thế-kỷ tới, mực nước có thể tăng giảm, nhưng có tăng lên cũng một vài thước là cùng. Các vùng đất thấp đông dân-cư đáng lo ngại bị ngập lụt nhiều nhất là khu châu-thổ các cửa sông Mae Nam và thủ-đô Vọng-Các của Thái-Lan. Sau đó, nước sẽ phải rút xuống.

Trong ṿng dăm ba ngàn năm tới, cả vịnh Bắc-Việt và Thái-Lan sẽ trở thành khô-cạn, người Việt chúng ta không c̣n có dịp theo mẹ lên núi nữa mà lại khởi-sự theo cha tiếp-tục tiến xuống Biển Đông.

- Thềm lục-địa chúng ta bảo-vệ hôm nay sẽ là lănh-thổ để lại cho con cháu chúng ta sau này. Thời-gian tuy có thể nói là xa, nhưng cũng cần tiên-liệu bây giờ.

- Trong ṿng dăm ba ngàn năm tới, khi nước rút xuống 20m, eo biển Malacca trở thành khô cạn. Biển Đông thực sự biến thành một cái biển nội-địa. Sự phồn-thịnh của các thương-cảng tại Tân-gia-Ba và Mă-lai-Á ch́m vào quá-khứ. Nước biển sẽ không c̣n thoát ra Ấn-độ-Dương. Biển Đông chỉ c̣n thông được với Thái-b́nh-Dương qua eo biển Đài-Loan và có lẽ mấy rănh nhỏ xuyên qua ngả Phi-luật-Tân mà thôi.

Tại vịnh Thái-Lan, hải-cảng Vọng-Các lùi dần vào đất liền, trở nên một giang-cảng. Khmer giống như Ai-Lao sẽ biến thành một quốc-gia nội-địa. Thái-Lan chỉ c̣n khu phía Tây thông ra được biển Andaman và Ấn-độ-Dương. Các hải-cảng Hải-pḥng, Sài-G̣n mất dần tầm-mức quan-trọng. Tuy vậy nhờ nằm cạnh vùng biển sâu, Cam-Ranh và các cảng miền Trung-Việt sẽ c̣n tiếp-tục hoạt-động và phát-triển mạnh. Tất cả khu-vực nội-địa rộng lớn từ Vân-Nam và Thái-Lan sang Ai-Lao, qua Khmer, tới Việt-Nam chỉ c̣n trông cậy vào sự thông-thương ra biển qua các cửa ngơ này mà thôi.

 

H́nh 8 - H́nh-thể Biển Đông nếu nước rút xuống chừng 70m, lănh-thổ sẽ rộng ra, nhiều hải-cảng ngày nay biến mất. (trích bản-đồ của National Geographic March 1971.)

 

Chỉ cần mực nước biển rút xuống 50, 60m; vịnh Bắc-Việt thành khô cạn, vịnh Thái-Lan thâu lại như một cái hồ nội-địa, và diện-tích lănh-thổ Việt-Nam tăng lên gấp hai lần. Phần đất mới do thiên-nhiên sắp ban-phát này rất phẳng-phiu, không núi non rừng rậm. Với sự cần-cù nhẫn-nại cố-hữu của dân ta, hầu hết đất nước Việt-Nam với vùng đồng-bằng bao la sẽ ph́-nhiêu xanh tốt kéo dài suốt dọc từ Bắc xuống Nam qua nhiều ngàn cây số.

Tuy vậy, khi diện-tích đất đai gia-tăng, dân-số toàn-thể nhân-loại cũng gia-tăng. Trong lúc diện-tích mặt biển suy-giảm, số lượng hải-sản cũng suy-giảm theo; nhiều đổi thay về môi-trường sinh-sống sẽ xảy ra và nhịp-độ tranh-chấp lănh-thổ cùng hải-phận cũng tăng theo cùng với mực nước rút... Những luật-lệ đặt ra hôm nay không c̣n phù-hợp trong lúc đó. V́ thềm lục-địa thoai-thoải của ḿnh, người Việt-Nam cũng nên tiên-liệu những ǵ xem ra lợi-ích hay tệ- hại cho các thế-hệ mai sau.

Sức người không tát cạn Biển Đông nhưng thuận vợ thuận chồng ḥa anh em, thương đồng-bào, dân Việt hy-vọng vẫn trường-tồn và ngự-trị Biển Đông. Nếu khoa khảo-cổ đúng, tiền-nhân Việt ta đă tiền-tiến trong nhiều lănh-vực, từng vẫy vùng trên mặt biển mênh mông th́ hậu-nhân Việt sẽ vẫn tiếp-tục vững chắc tiến bước trên con đường đó cho dù Biển Đông có ngày khô-cạn.

 

2.3 – BIỂN ĐÔNG, NGĂ TƯ THẾ-GIỚI.

Biển Đông hay Đông-Hải là một bán-nội-hải (semi-enclosed sea) nằm về phía Đông của Việt-Nam. Cũng có người gọi là Nam-Hải với ư-nghiă rằng "biển của người (Việt) Nam. V́ biển này cũng ở phía Nam của Trung-Hoa nên bản-đồ quốc-tế thường ghi là South China Sea. Nói khác đi, danh-từ Anh-ngữ này (Biển Nam Nước Trung-Hoa) c̣n gợi ư cho những nhà hàng-hải hiểu rằng vị-trí nước Tàu nằm ở phía Bắc của "Biển Đông" này.

Biển Đông được bao quanh tới 90% bởi biển các nước Việt-Nam, Kampuchea, Thái-Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei, Philippines, Taiwan và Trung-Hoa; trong đó phần bờ biển dài nhất là của Việt-Nam (2,828 hải-lư.) Chỉ có 10% chu-vi của biển này (perimeter= 8192 nautical miles) thông-thương được ra các biển Thái-b́nh-Dương và Ấn-độ-Dương.

Theo tài-liệu của văn-pḥng International Hydrographic Bureau, diện-tích Biển Đông vào khoảng 1,091,642 hải-lư vuông, bao gồm cả hai vịnh biển khá lớn là vịnh Bắc-Việt (46,961 hải-lư vuông) và vịnh Thái-Lan (85,521 hải-lư vuông.) Chiều dài nhất tới 1,901 hải-lư.

 

Table 1. Dimensions of Southeast Asian Seas

 

Area

Perimeter

Length

Water Body

(nmi2)

(nmi)

(nmi)

South China Sea

959,160

5,901

1,901

Gulf of Thailand

85,521

1,241

339

Gulf of Tonkin

46,961

1,050

268

TOTAL

1,091,642

 

 

H́nh 9 - Một vài con số về kích-thước của Biển Đông. Theo tài-liệu này, bờ biển Việt-Nam chiếm tới 35% chu-vi Biển Đông.

 

Không có một vùng biển nào trên thế-giới với diện-tích tương-đương mà lại có tầm-mức quan-trọng về phương-diện giao-thông như Biển Đông. Muốn từ Thái-b́nh-Dương sang Ấn-độ-Dương, tàu thuyền phải chạy qua đây. Biển Đông nằm ngay trên ngă tư đường hàng-hải, từ phía Bắc (Trung-Hoa, Đài-Loan, Đại-Hàn, Nhật-Bản) xuống Nam (Mă-Lai, Nam-Dương, Úc-Châu) và từ Tây (Âu-Châu, Phi-Châu, Trung-Đông, Ấn-Độ) sang Đông (Nam-Dương, Phi-luật-Tân, Đại-dương-Châu, Mỹ-châu.)

Thời xưa cũng như ngày nay, bao quanh Biển Đông là nhiều thương-cảng quốc-tế quan-trọng. Trước khi Trung-Hoa phát-triển hàng-hải vào thế-kỷ thứ 5, hải-cảng sầm-uất nhất của Biển Đông nằm trong vịnh Bắc-Việt vùng Ḥn-gay Hải-pḥng mà các nhà hàng-hải quốc-tế thường gọi là Cattigara (phiên-âm của các tên thời cổ như Kẻ Chợ- Kesho hay Cửa Gay.)

 

Hơn một thế-kỷ sau Tây-lịch, Ptolemy vẽ bản-đồ thế-giới có ghi h́nh-ảnh "bán-đảo Vàng" Mă-lai/ Đông-Dương và Biển Đông. Hải-cảng tận cùng về phía Đông có đường hàng-hải giao-thương là thuộc Giao-Chỉ, được ghi rơ rệt là Kattigara (toạ-độ 177 độ Đông kinh-tuyến, 8 độ 30' Nam vĩ-tuyến với kinh-tuyến gốc qua quần-đảo Canary.) (Sách Researches on Ptolemy's Geography of Eastern Asia, Colonel G.E. Gerini, M.R.A.S., London 1909.)

H́nh 10- Biển Đông với hải cảng chính Kattigara theo bản-đồ Ptolemy.

 

Ngay trong thời-kỳ bị Tàu đô-hộ, người Việt vẫn tiếp-tục nắm giữ độc-quyền đường biển vùng Hoa-Nam và Biển Đông như đă từng nắm giữ từ hàng ngàn năm trước đó. Hàng-hóa xuất nhập Đông-Á đều qua cửa khẩu Giao-chỉ, bên chính-quốc Trung-Hoa lúc đó không có một hải-cảng nào quan-trọng. Các đoàn thương-nhân và ngoại-giao phương Tây sang Á-Đông đều ngừng lại bến cuối cùng là "Cattigara" ở xứ ta.

 

Ngày nay, Trung-Cộng thường tuyên-bố người Tàu là giống dân đầu tiên khám-phá Biển Đông, khám-phá Hoàng-Sa. Sự kiện này chỉ có những người nào thiếu kém hiểu-biết mới tin-tưởng mà thôi. Trước khi người Tàu lập-quốc (chỉ chừng 3 thiên-kỷ trước Tây-lịch) nhiều ngàn năm, thổ-dân vùng Đông-Nam-Á đă đi đi, lại lại thường-xuyên trên Biển Đông, di-chuyển qua Đài-Loan, Nhật-Bản và đi ra cả các đảo ngoài Thái-b́nh-Dương.

Đường biển thời cổ nhộn-nhịp đến độ các dân-tộc cả một vùng rộng lớn có nhiều sinh-hoạt, kiến-thức, văn-hóa tương-tự. Qua đường hàng-hải, ngôn-ngữ các dân-tộc ảnh-hưởng lẫn nhau. Ngày nay bao quanh Biển Đông, người ta thấy các ngôn-ngữ hỗn-hợp giữa hai họ Nam-Á và Nam-Đảo mà nhà ngữ-học Wilhelm Schmidt đề-nghị góp chung lại và gọi là các tiếng Nam-phương (Austric.)

H́nh 11- Địa-bàn các ngôn-ngữ Nam-đảo hay Mă-lai Đa-đảo.

 

Trường-hợp tiếng Việt-Nam là một thí-dụ về sự pha trộn đó. Ngôn-ngữ ta được một số học-giả xếp vào gia-đ́nh Việt-Mường, tức một chi của tiểu-họ Môn-Khmer, một số khác xếp vào chi Nam-Thái. Dù Môn-Khmer hay Nam-Thái, Việt- ngữ đứng về vị-trí địa-dư, thuộc họ Nam-Á. Tuy vậy lại có rất nhiều bằng-chứng hiển-nhiên về sự liên-hệ chặt chẽ giữa tiếng Việt và các thứ tiếng Nam-Đảo. Địa bàn các tiếng Nam-Đảo này trải dài hơn nửa ṿng trái đất, từ đảo Madagascar, gần Phi-châu đến đảo Easter, gần Nam-Mỹ.

Đặc-điểm của họ ngôn-ngữ này là sự phân-tán tiếng nói nhờ vào đường biển mà trung-tâm khởi đi từ khu-vực chung quanh Biển Đông, khác hẳn các họ ngôn-ngữ khác truyền đi bằng đường bộ.

H́nh 12- Ảnh-hưởng văn-hóa hàng-hải của người Việt (Yueh) thời cổ ở Đông-Á. Đường biển đi Nhật-Bản, buộc họ đi ngang Đài-Loan và đường đi Nam-Dương buộc họ qua Hoàng-Sa Trường-Sa. (Theo tài-liệu: A History of China, Wolfram Eberhard, 1977: 6-7.)

 

Trong khi nước Trung-Hoa thành-h́nh ở b́nh-nguyên sông Hoàng-Hà và c̣n xa lạ với biển, dân Việt đă sinh sống tại vùng duyên-hải phía Đông và Đông-Nam châu Á. Đặc-biệt dân-cư nền văn-minh Ḥa-B́nh (Bắc-Việt) rất giỏi hàng-hải, đă mang văn-minh đi reo rắc khắp vùng Biển Đông, xuống tận Nam-Dương và các quần-đảo phía Nam. Sử Tàu cũng ghi chép những chi-tiết xa gần liên-hệ đến những đường hàng-hải như vậy. C̣n riêng người Tàu, họ chỉ mới bành-trướng xuống Hoa-Nam vài thế-kỷ trước Tây-lịch mà thôi.

Hiện nay, nhờ nằm trong vùng địa-thế đặc-biệt phát-triển hàng-hải như vậy, các quốc-gia láng giềng với ta như Mă-Lai, Tân-gia-Ba đang trở nên những nước giàu có nhất nh́ thế-giới. Việt-Nam tuy chậm hơn họ nhưng vẫn có cơ-hội tiến lên.

 

Nếu lấy giữa Biển Đông làm trung-tâm nh́n ra thế-giới:

-Trong ṿng bán-kính 1500 hải-lư, ta thấy các thành-phố hải-cảng quan-trọng như Bangkok, Rangoon, Calcutta, Singapore, Djakarta, Manila, Taipei, Hongkong, Shanghai, Nagasaki.

-Trong ṿng bán-kính 2500 hải-lư, ta thấy các thành-phố hải-cảng Madras, Colombo, Bombay, Bali, Darwin, Guam, Tokyo, Yokohama, Seoul, Beijing...

Nh́n kỹ ṿng tṛn 2500 hải-lư này, ta thấy nó bao trùm hầu hết lănh-thổ các nước lớn có dân-cư vào hàng đông nhất trên thế-giới như Trung-Hoa, Ấn-Độ, Nam-Dương, Nhật-Bản. Sự cận kề của Biển Đông với gần nửa phần nhân-loại trong ṿng tṛn tương-đối hẹp 2500 hải-lư là ưu-điểm hàng đầu mà người ta không thể t́m thấy ở bất cứ một vùng biển nào khác trên thế-giới.

Trong các thế-kỷ vừa qua, những hải-cảng Việt-Nam như Cam-Ranh, Sài-G̣n, Hải-Pḥng..., v́ hoạt-động suy-giảm nên thường được xếp vào hạng những hải-cảng kém quan-trọng; đứng sau các cảng San Francisco, New York, Yokohama, Hongkong, Sidney, Singapore... Bước sang thế-kỷ tới, khi những vùng hậu-cảng nước ta giàu có thêm, kỹ-nghệ phát-triển và tầm khai-thác tài-nguyên của Biển Đông đạt đến đúng mức, thứ hạng quan-trọng của Cam-Ranh cũng như của các cảng Việt-Nam khác sẽ thay đổi hẳn. 

H́nh 13- Vị-trí Biển Đông và thế-giới. Ṿng tṛn có tâm ở Biển Đông và bán kính 2500 hl bao trùm gần nửa phần nhân-loại .

 

 

3 – HẢI-SINH-VẬT BIỂN-ĐÔNG.

 

Động-vật chính ngoài Biển Đông là các loài chim, rùa, tôm cá.

 

3.1 – CHIM CHÓC.

 

Đối với người đi biển, hải-âu là loài chim mà họ thường gặp nhất khi hải-hành.

 Các đảo là những nơi ẩn-trú của các loài chim biển, nhất là chim hải-âu. Chim bay ra biển kiếm ăn rồi trở về đảo, chúng đẻ ngay trên đất, không cần làm tổ. Trứng của chúng to hơn trứng gà, vỏ mỏng mầu trắng điểm nhiều đốm đen. Hải-âu trên Biển Đông (họ Laridea) không lớn lắm, ít con nào sải cánh (wing-span) tới 80cm. Người Việt chúng ta thường gọi chung các chim biển đủ mọi loại là "hải-âu". Thật ra, theo khoa-học, hải-âu có nhiều loại khác nhau.

Những chim Biển Đông không phải cùng họ với loài hải-âu to lớn Albatros (họ Diomedeidae.) V́ chúng có đôi phần tương-cận, nên nhân-tiện đây chúng tôi xin kể vài tính-chất của loài hải-âu Albatros như sau:

-Là loài chim có cánh sải ra rất dài. Wandering Albatros đo được 12 feet (3.65 m) từ đầu cánh này tới đầu cánh kia. Chúng là loài chim lớn nhất khi bay. Dạng bay lượn của chim rất nhẹ nhàng đẹp mắt, chim bay xa nhiều ngàn hải-lư và sống lâu hơn hầu hết các loài chim khác. Một hải-âu được đánh dấu năm 1860, đă sống qua nhiều thập-niên cho đến khi bị ngẫu-nhiên giết chết vào năm 1894 tại đảo Faero Island (bắc Tô-cách-Lan.)

H́nh 14-Bề sải cánh của Hải-Âu Albatros, so sánh với người cao 6ft và chim hummingbird loại nhỏ.

 

 

- Nhờ cánh dài và hẹp bề ngang, chim rất giỏi liệng qua liệng lại nhưng v́ đập cánh một cách khó khăn nên albatros thích sinh sống trong những vùng biển có gió mạnh.

-Là loài chim di-điểu sinh sống trên đại-dương vùng Nam-bán-cầu, bay theo gió mùa ṿng quanh thế-giới. Chim Albatros không có nhiều lắm ở Bắc-bán-cầu và người Âu-châu chỉ mới biết loài hải-âu này vào những thế-kỷ gần đây khi họ khởi sự dương buồm về Nam, đi thám-hiểm.

-Là bạn thân-thiết của người đi biển, hải-âu đôi khi liệng cánh bay theo tàu nhiều ngày liên-tiếp. Thủy-thủ kiêng-cữ việc giết hải-âu, tác-phẩm văn-học nổi-tiếng nhất đă bi-hùng-hóa niềm mê-tín này là "The Rime of the Ancient Mariner" của thi-hào Anh-cát-Lợi, ông Samuel Taylor Coleridge (1772-1834.)

Về các loại chim Biển Đông, chúng được chia làm ba họ: Laridés, Stéganopodés và Zosterops. Theo Jean de Lacour và Jabouillé, người Việt-Nam thường gọi chim thuộc họ Zosterops là "Chim Sâu Nghệ". Hai ông thấy chúng trên đảo Phú-Lâm. (Oiseaux des Iles Paracels trong Mémoire No.3 du Service Océanographique de l'Indochine, Saigon, 1930.)

H́nh 15- Một loài chim thuộc họ Zosterops.

 

Chim Laridea sinh sống suốt đời ngoài biển, chúng chỉ dành một phần nhỏ cuộc đời trên hải-đảo. Theo sự tiến-hóa chân chim biến-đổi, có màng để bơi lặn trong nước. Đường thực-quản của chim có cơ-phận đặc-biệt để loại bớt chất muối hiện-hữu quá nhiều trong nước biển. Chim rất nhanh nhẹn ngoài biển cả, trên không lẫn dưới nước; nhưng di-chuyển chậm chạp trên bờ. Chúng không biết leo cây, thường đậu trên băi, đẻ trứng trên cát và không làm tổ. Đời các hải-âu khá dài, chúng có thể sống tới 36 tuổi hay lâu hơn nữa.

Chim biển có thức ăn thường ngày là hải-sản nên phân chứa nhiều acid phosphoric. Chất này tác-dụng lên chất vôi là biến-chất của xác thân san-hô sau khi chết, tạo thành phosphate, song-hành với sự bay hơi của khí CO2. Chất phosphate này là một thứ phân-bón giúp cây cối có cơ-hội phát-triển nhanh chóng.

 

H́nh 16 – Chim hải-âu thuộc họ Laridés.

 

3.2- RÙA VÀ SINH-VẬT TRÊN ĐẢO NGOÀI BIỂN ĐÔNG.

Bên cạnh chim biển, động-vật đáng kể đến là rùa biển.

Rùa biển sinh sản trong vùng nhiệt-đới. Rùa đẻ trứng vùi trong cát. Trứng rùa cần nhiệt-độ cao mới nở được. Đối với người Trung-Hoa thời cổ sống nơi vùng ôn-đới th́ những con rùa to lớn xuất-xứ từ vùng Biển Đông xem ra rất lạ lùng với họ. Sử Tàu ghi-nhận chứng-cớ đó.

"Câu truyện" cống rùa thần" được chép trong sách Cương-Mục Tiền-Biên của Kim-Lư-Tường và sách Thông-Chí của Trịnh-Tiều, theo đó đời vua Đường-Nghiêu bên Tàu (2357-2258 tr T.C.), họ Việt-Thường có đến chầu và cống con rùa thần, sống tới cả ngàn năm, lưng có mang chữ viết ghi việc từ khi trời đất mới mở mang. Vua Nghiêu sai người chép lại gọi là lịch rùa." (Lịch-sử dân-tộc Việt-Nam, quyển 1, Phạm-cao-Dương, 1987, trang 40.)

Một loại rùa biển có giá-trị thương-mại đáng kể là đồi-mồi. Nhiều sản-phẩm rất mỹ-thuật làm bằng mai đồi-mồi bán được giá cao trong cả hai thị-trường quốc-nội và quốc-ngoại. Khi để lớn hết cỡ, mỗi con có thể cho tới 3.6Kg đồi-mồi.

Người dân duyên-hải, kể cả ngoại-nhân xâm-nhập bất hợp-pháp, đă khai-thác bừa băi khiến cho giống đồi mồi đang suy-giảm rơ rệt và có cơ tuyệt-chủng.

 

 

H́nh 17- Mai đồi-mồi rất đẹp, có giá-trị thương-mại.

 

Rùa biển khác với rùa sống trên cạn ở vài điểm như 4 chân biến thành vây để bơi. Rùa biển bơi lẹ làng và v́ sự tiến-hóa, vây dài thêm không c̣n thu gọn lại được trong mai như rùa đất. Rùa biển có thể lớn tối-đa tới 6 feet (1.85m), sống lâu hàng trăm năm. Đồi-mồi nhỏ hơn, mai rộng chừng 80 cm gồm nhiều miếng vẩy xếp như mái ngói. Vẩy đồi-mồi có vân mầu nâu óng ánh rất đẹp, dùng làm quạt, gương, lược, b́a sách... thật đẹp mắt. Đồi-mồi sống nhiều trong vịnh Thái-Lan, nhất là vùng Phú-Quốc.

Rùa biển nằm trong danh-sách các loài sinh-vật cần được bảo-tồn của tổ-chức Liên-hiệp-quốc.

H́nh 18- Vít cũng như các loại rùa biển khác đẻ trứng trên băi cát. Đẻ trứng xong, con rùa này đang trở ra biển.

 

Ngoài đồi mồi c̣n một loài rùa biển mà người ta gọi là con Vít. Ban đêm vít từ biển ḅ lên băi đẻ trứng. Trứng vít lớn như trứng vịt, có thể ăn được. Muốn bắt Vít hay lấy trứng, người ta cứ đi theo những vết chân của nó như hai vệt bánh xe tăng kéo dài trên cát. Vít bị lật ngửa thường không tự lật lại được. Thịt vít cũng ăn được, lại có thể sẻ ra làm khô. Chúng đẻ trứng vùi dưới cát. Nhờ cát nóng, trứng nở ra vít con chạy tứ tán ra biển. Trên đường chạy ra biển như vậy, vô-số vít sơ-sanh bị chim ăn thịt nhưng vẫn c̣n nhiều con sống sót nhảy được xuống nước.

Cũng có chuột trên các đảo, loại to bằng chuột cống. Người đi biển cho biết ở đảo nào cũng có muỗi.

Theo các nhà Địa-chất-học như Linh-mục La Fontaine mà nhiều tài-liệu của ông được tra-cứu và trích-dẫn trong sách này, th́ thú-vật sống trên các đảo của Biển Đông đều là các loài đă gặp trên đất liền. Ông R. Bournet (1937) đă t́m thấy rắn mối Emoia Atrocostatum tại Hoàng-Sa, loài này sống ở khắp nơi từ bán-đảo Mă-Lai qua Phi-luật-Tân và Đại-dương-Châu.

 

3.3- HẢI-SINH-VẬT NGOÀI BIỂN.

Một số lớn các thủy-tộc thông-thường mà ta thấy ở bờ biển Việt-Nam cũng sinh-sống ngoài Hoàng-Sa và Trường-Sa như cá thu, cá nhám, cá hồng, cá mú, lươn bể, cá đuối, cá mực, đồn đột, tôm cua, ṣ ốc...

Biển Đông có nhiều loại cá đáng kể là những mối lợi lớn về kinh-tế. Chúng tôi xin tŕnh bày về các loài cá của ngư-nghiệp trong phần tài-nguyên hải-sản, ở đây chúng tôi xin nói vài điều về những hải-sinh-vật lớn như cá voi, cá heo.

- Chúng ta thường hay gọi cá voi, cá ḱnh, cá heo nhưng trong sinh-vật-học, chúng không phải loài "Cá" mà được xếp hạng cùng với con người trong loài "hữu-nhũ" (Mammalia) máu nóng, thở bằng phổi, đẻ con nhỏ (không đẻ ra trứng.) Cá voi thực-sự (true whale) không có răng cứng mà chỉ có những màng lưới bằng sụn mềm xếp kín như cái lược. Chúng sống bằng các phiêu-sinh-vật (plankton) là những sinh-vật nhỏ li-ti sống trôi nổi trong nước.

- Viện Nghiên-cứu Đông-Tây tại Hawaii cho biết ở Đông-Nam-Á có tới 11 loài cá voi được xếp thứ-tự nh́n thấy sinh-sống nhiều ít như sau: Bryde's whale, Sperm whale, Sei whale, Fin whale, Blue whale, Minke whale, Goosebeaked whale, Humpback whale, Beaked whale, Black right whale, Pygmy sperm whale.

- Riêng ở khu trung-ương của biển Đông, những cá voi mà người ta thường thấy nhất là loại cá voi có vi (fin whale), tên khoa-học là Balaenoptera Physalus. Cá voi này có thể dài tới 70 hay 80ft, mầu xám trên lưng trắng ở bụng, mang thai trong 10 tháng. Cá voi lưng gù (humpback) Megaptera Novaeangliae là loại cá voi thường thấy sau loại trên. Cá này dài đến 50 ft, tương đối ngắn nhưng to ngang.

- Người Việt lúc xưa cũng săn cá voi như mọi giống dân Á-Đông khác. Dân duyên-hải nước ta chỉ mới thờ cá voi cách nay không lâu khi Nam-tiến, tiếp-xúc nhiều với người Chiêm-Thành.

 

H́nh 19 - Cá voi lưng gù, một loài có thể sắp bị tuyệt-chủng

 

Những loài cá lớn nhất như cá voi xanh (dài tới 100ft) chỉ thỉnh-thoảng mới xuất-hiện ở vùng biển phía Nam gần Nam-Dương. Hàng năm, một vài con bị săn và bị bắn chết khi chúng di-chuyển từng đàn theo mùa. Một loài cá voi khác cũng xuất hiện quanh vùng đáy biển nông Sunda như Sperm whale (Physeter catadon), Sei whale (Balaenoptera borealis.)

- Ngoài cá voi, Biển Đông cũng là nơi sinh sống của loại cá heo (Delphinadae.) Trong sinh-vật-học, người ta cho rằng cá voi và cá heo có nhiều điểm tương-tự; trừ ra cá heo có hàm răng, chúng sinh sống bằng các loại cá và cá mực. Cá heo vùng biển nước ta có vài điểm hơi khác biệt nên thường được gọi là cá heo South China Sea hay Malacca Dolphin. Chúng đi từng bày, thân dài trong khoảng từ 1.5m tới 2m, bơi rất nhanh và thích đùa giỡn khi chạy qua chạy lại trước mũi tàu những khi đẹp trời.

 

H́nh 20 – Cá heo của Biển Đông cũng cần được bảo-vệ.

 

Ở Việt-Nam không thấy người ta nuôi dậy cá heo nhưng ở Thái-Lan, Mă-lai-Á và vịnh Bengal, cá heo rất hữu-ích v́ giúp ngư-dân lùa cá vào lưới.

 

3.4- BIỂN ĐÔNG VÀ MÔI-TRƯỜNG SINH-VẬT-HỌC VIỆT-NAM.

Như đă tŕnh-bày ở trên về môi-trường thực-vật, Biển Đông hoàn-toàn có tính-chất Việt-Nam. Những cuộc khảo-cứu về phương-diện sinh-vật-học lại c̣n cho biết thêm rằng Biển Đông cũng có môi-trường sinh-sống gần với Việt-Nam hơn là gần Trung-Hoa hay Phi-Luật-Tân.

 

3.4.1 – VÙNG MÔI-SINH Á-ĐÔNG.

Theo khoa Sinh-vật Địa-lư-học, thế-giới được chia làm 6 vùng môi-sinh (biogeographical zones); Bắc-Mỹ, Nam-Mỹ, Bắc Á Âu, Phi-Châu, Đông-Phương và Úc-châu.

 

 

H́nh 21- Sáu vùng môi-sinh trong khoa Sinh-vật Địa-lư-học. Biển Đông và Việt-Nam cùng nằm trong vùng Oriental Region.

 

Khu-vực phía nam dẫy núi Hi-mă-lạp-Sơn bao gồm Ấn-Độ và Đông-Nam-Á được đặt tên là Vùng Đông-Phương (Oriental Region.) Vùng này không lớn lắm nhưng là khu-vực mà môi-trường sinh-vật phong-phú nhất trên trái đất, trong đó có Việt-Nam cũng như Biển Đông.

Trong khi đó, hầu hết lănh thổ Trung-Hoa nằm trong khu-vực mà khoa sinh-vật-học gọi là Palearctic. Vùng này tuy rộng lớn nhất, bao-trùm hết cả Bắc-Á, toàn-thể Âu-châu và Tây-Bắc Phi-châu nhưng lại ít có những loài sinh-vật đặc-thù.

Căn-cứ theo giới-tuyến Himalaya - Đông-Nam-Á, Biển Đông không có nhiều liên-hệ về sinh-vật với Trung-Hoa.

 

3.4.2 – ĐƯỜNG WALLACE – HUXLEY.

Môi-sinh Biển Đông cũng xa lạ với Phi-luật-Tân, miền đông Nam-Dương và Úc-Châu. Ranh-giới chia cắt môi-sinh này thường được gọi là đường Wallace-Huxley.

Nước Việt-Nam nằm trong khu-vực mà các nhà sinh-vật gọi là Wallacea, đặt theo tên của Alfred Russel Wallace. Wallacea là vùng đất sinh-sống của các động-vật Á-đông. Không những Trung-Hoa nằm ngoài vùng môi-sinh Á-đông như đă nói ở trên, Phi-luật-Tân cũng không ở trong vùng này.

Nhà thiên-nhiên-học người Anh này nhận ra rằng ở đảo Bali có tới 94% loài ḅ-sát và 87% loài chim nguồn gốc Á-Đông, nhưng ở Lombok là đảo kế cận hướng đông của Bali, th́ các tỷ-lệ trên sụt giảm xuống c̣n 85% và 72.5%. Nhiều loài hữu-nhũ từ Á-Đông sang sinh-sống ở Java, chúng tới được Bali nhưng không thấy tồn-tại xa hơn về hướng Đông như Lombok, Celebe.

Tiếp theo Wallace, một nhà sinh-vật-học người Anh nữa là Huxley nghiên-cứu thêm và thấy rằng t́nh-trạng sinh-vật ở Phi-luật-Tân (trừ đảo Palawan) cũng giống như ở Lombok và Celebe, nghĩa là khác-biệt với Việt-Nam. Bên bờ phía Tây của đường này sinh-vật mang đậm những nét Á-Đông đáng kể (overwhelmingly Oriental fauna.) Càng đi xa về phía Đông của đường Wallace-Huxley, ảnh hưởng môi-trường sinh-vật Úc-châu (Australian fauna) càng nhiều hơn; cho tới đường Weber th́ bách-phân sinh-vật Á-đông chỉ c̣n lại là 50%.

H́nh 22- Về môi-sinh, Biển Đông thuộc về Việt-Nam: Đường Wallace/Huxley cắt Phi-luật-Tân ra khỏi Biển Đông.

 

Tóm lại, các lư-lẽ trên chứng-minh rơ ràng Biển Đông thuộc Việt-Nam về phương-diện Sinh-vật Địa-lư-học.

 

 

3.5 – BẢO-VỆ MÔI-TRƯỜNG THIÊN-NHIÊN.

Con người càng ngày càng chiếm đóng thêm nhiều hải-đảo. Những nơi xưa kia chim chóc, rùa vít... thường làm tổ một cách tự-do th́ nay không c̣n nữa. Chẳng những người đă chiếm đất của vật, con người lại c̣n tàn-sát các sinh-vật khác không tiếc tay. Trên Biển Đông số lượng sinh-vật đang suy-giảm nhiều, đặc-biệt là những loài rùa biển, như vít, đồi mồi, như cá voi, cá heo ... Nếu không được bảo-tồn, chúng có thể bị tuyệt-chủng. Những cơ-quan bảo-vệ thiên-nhiên đă kêu gọi các quốc-gia duyên-hải lưu-tâm tham-gia những chương-tŕnh của họ.

Theo đà tiến-bộ chung của nhân-loại, các nước Đông-Nam-Á cũng bắt đầu khởi-sự những chương-tŕnh bảo-vệ môi-sinh quan-trọng từ hơn một thập-niên qua. Dẫn đầu những công-tác ngoài Biển Đông là Nam-Dương. Nhờ nền kinh-tế phát-triển mạnh, tiền bạc dồi dào, các chính-phủ Mă-lai-Á và Tân-gia-Ba cũng đang hăng-hái tham-gia và đă chi-phí những khoản tiền lớn về chống ô-nhiễm, bảo-vệ môi-sinh.

Những hải-sinh-vật như rùa biển, cá heo, cá voi... được ghi trong danh-sách những sinh-vật cần bảo-vệ. Cơ-quan International Whaling Commission (IWC) thuộc Liên-hiệp-quốc, đặc-trách việc này đă thông-báo nguy-cơ tuyệt-chủng của các loài cá voi, cấm săn-bắn cá voi lưng gù (Humpback whale, Megaptera novaeangliae) vào năm 1966, cá voi xanh (Blue Whale, Balaenoptera musculus) năm 1967 và cá voi có vi (Fin whale, Balaenoptera physalus) vào năm 1975.

 

H́nh 23- Cá voi xanh, dài tới 100ft, là loài động-vật lớn nhất của địa-cầu. Một số di-chuyển theo mùa trong vùng biển ĐNÁ. Số lượng đang suy-giảm rơ rệt.

 

Trong khi đẩy mạnh sản-lượng ngư-nghiệp, hầu hết các quốc-gia duyên-hải đă có kế-hoạch khuyến-cáo những ngư-dân tránh sát-hại các loài hải-vật nào cần-thiết được bảo-tồn để chúng tiếp-tục sinh-sản.

Trường-hợp Việt-Nam, ư-thức về việc bảo-vệ môi-sinh rất thấp, đặc-biệt về môi-sinh ngoài biển có lẽ c̣n xa lạ với phần đông dân ta. Chính-quyền nào cũng cần lưu-tâm đến công-tác này, sự giáo-dục phải khởi-sự ngay từ học-đường ra đến đại-chúng.

Trong số lượng lớn quân-nhân trú-pḥng trên các hải-đảo, không chắc có bao nhiêu cá-nhân ư-thức đến môi-trường sinh-sống chung quanh. Một khi nước biển bị ô-nhiễm, ánh-sáng không c̣n chiếu xuống được sâu, nước biển đục ngầu th́ san-hô chết và sự tồn-tại của hải-đảo lệ-thuộc vào đó. Người quân-nhân cũng như thường-dân phải ư-thức được sự sinh-tồn của con người liên-hệ ra sao với san-hô, với biển, với hải-sinh-vật... Đời sống vốn là sự cộng-sinh giữa muôn loài, sẽ thay đổi theo chiều-hướng tốt đẹp hơn.

 

 

4 – KHÍ-TƯỢNG BIỂN ĐÔNG.

Khí-tượng Biển Đông khác với khí-tượng trong lục-địa.

 

4.1- T̀NH-TRẠNG KHÍ-TƯỢNG TỔNG-QUÁT.

Nói chung Hoàng-Sa Trường-Sa nhờ nằm giữa Biển Đông nên khí-hậu điều-ḥa, không lạnh quá về mùa Đông, không nóng quá về mùa hè nếu so với những vùng đất cùng vĩ-độ trong lục-địa. Không-khí Biển Đông ít bị ô-nhiễm. Bầu trời thường trong trẻo, tuy đôi khi u-ám và có mưa lớn trong giông băo nhưng thời-gian này tương-đối qua đi khá nhanh. Mưa ngoài biển qua nhanh, ở Hoàng-Sa không có mùa nào ảm-đạm kéo dài như kiểu mưa dầm gió bắc ở Bắc-phần hay mù-mịt như trong mùa mưa ở Huế. Buổi sáng cũng ít khi có sương mù.

 

-Nhiệt-độ. Nhiệt-độ ở Hoàng-Sa không chênh lệch lắm giữa mùa Hạ (28-29 độ bách-phân) và mùa Đông (24-25 độ.) Tuy xa cách Hoàng-Sa tới 6, 7 độ vĩ-tuyến, gần hơn về phía Xích-đạo nhưng Trường-Sa cũng chỉ nóng hơn Hoàng-Sa chừng vài độ. Có thể nói hai quần-đảo Hoàng-Sa Trường-Sa không có mùa lạnh, khí-hậu dịu mát nhờ ảnh-hưởng đại-dương.

-Vũ-lượng. Ở Hoàng-Sa mưa trung-b́nh trong năm lối 1,170mm, tuy được kể là mưa nhiều nhưng không quá đáng như ở Huế (3,000mm.) Mưa nhiều nhất trong tháng 10 (17 ngày - 228mm.) Trường-Sa là vùng rộng lớn gấp 10 lần hơn Hoàng-Sa, hiện không đủ dữ-kiện nhưng chúng ta có thể ước-đoán rằng vũ-lượng tổng-quát thấp hơn Hoàng-Sa một chút.

- Ẩm-độ. Không-khí Biển Đông tương-đối ẩm-thấp hơn những vùng biển khác trên thế-giới. Ở cả Hoàng-Sa lẫn Trường-Sa, ẩm-độ đều cao, ít khi nào bách-phân ẩm-độ xuống dưới 80%. Trung-b́nh vào tháng 6, ẩm-độ ở Hoàng-Sa suưt soát 85%.

 

Những sự kiện khí hậu ở Hoàng Sa

Tháng

Giêng

Hai

Ba

Năm

Sáu

Bảy

Tám

Chín

Mười

M.Một

M.Hai

TB Nhiệt

TB Ẩm Độ

TB Vũ Lượng

Số Ngày Mưa

23,5

82,1

21

8

24

83,7

17

5

26,2

83,8

21

3

27,7

83,5

60

5

29,2

83,9

73

8

29,1

84,8

128

8

28,9

84,2

93

7

28,7

83,7

141

9

28,1

84,4

197

15

27,1

83,8

228

17

25,8

83,7

143

14

24,4

81,5

47

13

(Trích Khí Hậu V.N. – Nha Giám Đốc Khí Tượng 1964)

 

 

 

 

 

 

 

H́nh 24 - Nhiệt-độ, ẩm-độ, vũ-lượng ở Hoàng-Sa.

 

4.2 – MÙA GIÓ.

Có hai mùa gió Đông-Bắc và Tây-Nam rất rơ rệt:

* Mùa gió Đông-Bắc thổi mạnh trên biển Đông, từ tháng 11 đến tháng 1, gió 20-25 gút, biển động mạnh, tới cấp 4 cấp 5. Người đi biển hay dân đánh cá rất khổ cực. Vịnh Thái-Lan trong mùa này tương-đối êm-dịu.

* Mùa gió Tây-Nam thổi trong những tháng 3, 4, 5. Gió mùa này thường yếu hơn gió mùa Đông-Bắc và biển cũng ít động. Trong mùa gió Tây-Nam, biển Hoàng-Sa khá êm dịu trong khi Trường-Sa và vịnh Thái-Lan bị ảnh-hưởng sóng gió nhiều hơn.

 

4.3 – THỦY-TRIỀU.

Thủy-triều là một hiện-tượng nước biển lên xuống, nguyên-do v́ hấp-lực của các tinh-tú mà chính-yếu là mặt trăng và mặt trời. Hiện-tượng này tuy phức-tạp nhưng lại đi theo chu-kỳ. Sau nhiều nghiên-cứu, chiêm-nghiệm; ngày nay người ta có thể tiên-đoán khá chính-xác cao-độ thủy-triều tại bất cứ một hải cảng trong bất cứ một thời-điểm nào

Hoàng-Sa và Trường-Sa nằm ngoài khơi Việt-Nam nhưng thủy-triều lên xuống tại đây lại không theo đúng nhịp điệu, chu-kỳ hay biên-độ của những con nước lớn và nước ṛng ở các bến quy-chiếu chính của Việt-Nam là Đồ-Sơn và Vũng-Tàu.

Nói chung, biên-độ thủy-triều không lớn lắm, khoảng 4 - 5ft (1.2m - 1.5m.) Chu-kỳ thủy-triều Hoàng-Sa thuộc loại hỗn-hợp giữa bán-nhật và toàn-nhật; với đặc-tính toàn-nhật vượt trội hơn (chiefly diurnal.) Thông-thường, mỗi ngày một con nước lớn, một con nước ṛng, chuyển qua hai con nước một ít ngày, rồi trở lại một con.

 

H́nh 25- Một đường biểu-diễn cao-độ tiêu-biểu cho thủy-triều loại hỗn-hợp.

 

Người đi biển thường dùng những Bảng Thủy-triều (Tide Table) để tính-toán thời-gian và cao-độ mực nước lên xuống.

 

H́nh 26- Tài-liệu trích trong "Bảng thủy-triều". Thủy-triều các cảng Việt-Nam có bến quy-chiếu tại Manila, Phi-luật-Tân.

 

H́nh 27- Bản-đồ nhiệt-độ nước biển, biên-độ thủy-triều, năng-lực sóng Biển Đông.

 

Sự tiên-đoán thủy-triều ngày nay khá chính-xác, Tide Table trợ giúp rất đắc-lực cho những nhà hải-hành khi đi qua các vùng nước cạn, đưa Tàu chui dưới những cây cầu thấp, ra vô hải-cảng, tính toán giờ giấc vận-chuyển v.v...

Bảng Thủy-triều do Bộ Thương-mại Hoa-Kỳ biên-soạn, chỉ-dẫn việc dùng bến quy-chiếu ở Manila, Phi-luật-Tân cho thủy-triều Hoàng-Sa và các bến vùng Đà-Nẵng, cộng trừ thêm những sai-biệt đă được cơ-sở Thủy-Đạo tính toán sẵn. Chúng tôi xin trích-dẫn một vài ḍng trong sách trên làm tài-liệu.

Trong khi đó ở Vũng-Tàu, Kê Gà, Côn-Sơn, Ḥn Khoai, Vịnh Phú-Quốc, Sài-G̣n; thủy-triều là loại bán-nhật (semi-diurnal) với con nước dâng lên hạ xuống mỗi ngày hai lần. Bến quy-chiếu tại Mũi Vũng-Tàu.

Đồ-Sơn là một bến quy-chiếu khác trong bảng Tide Table dùng tính toán thủy-triều các bến dọc theo Vịnh Bắc Việt, trải dài từ đảo Cái Bầu, Hải-Pḥng, Ḥn Me đến cửa Nhật-Lệ và ra ngoài xa đến đảo Bạch-long-Vĩ. Thủy-triều này là loại toàn-nhật (diurnal.)

 

4.4 – VÙNG NƯỚC XOÁY.

Nước thủy-triều di-chuyển lên xuống theo đường thẳng đứng, Nước cũng di-chuyển ngang, tạo nên những ḍng nước chảy qua chảy lại trên biển. V́ nhiều yếu-tố ngoại-lai như địa-thế bờ đất, hải-đảo, đáy biển, luồng gió ảnh-hưởng đến, những ḍng nước thủy-triều có thể chạy ngược lại với nhau trong một vùng nào đó làm nước xoáy tṛn.

Hiện-tượng nước xoáy này làm những khối lượng nước bị cuốn xuống đáy biển theo ṿng trôn ốc như tại khu-vực ngoài khơi những ghềnh đá Na-Uy. Trong những trường-hợp đặc-biệt, vùng nước xoáy mạnh đến nỗi có thể hút cả ghe thuyền, đáng sợ nhất là ở khu-vực nằm giữa hai vùng biển Phi-luật-Tân và Nhật-Bản.

Tại Biển Đông, biên-độ thủy-triều thường nhỏ nên những ḍng nước gây nên bởi thủy-triều không mạnh lắm. Dân đánh cá thường biết rơ những vùng nước xoáy gần bờ để lái ghe thuyền nhỏ bé của họ tránh ra xa. Ngoài biển khơi, tuy nước có xoáy ở vài nơi nhưng không gây nguy-hại hiểm-nghèo cho các tàu thuyền đi biển lớn hơn mức trung-b́nh.

 

H́nh 28 – Cách giải-thích hiện-tượng những con nước xoáy. H́nh vẽ có hơi phóng-đại cơ-nguy trên Biển Đông.

 

 

4.5 – NƯỚC BIỂN, NỒNG-ĐỘ MUỐI.

Nước biển các vùng Hoàng-Sa và Trường-Sa lúc nào cũng ấm-áp. Nhiệt-độ cả năm thường cao hơn 20 độ bách-phân. Nước biển chứa nhiều oxy, rất trong v́ không bị ô-nhiễm và cũng v́ xa các cửa sông nước đục. Độ mặn của muối dưới mức trung-b́nh, thường không cao quá 35 phần ngàn (%o.) Bầu trời Hoàng-Sa và Trường-Sa thường quang đăng ít mây, mặt trời nhiệt-đới quanh năm chiếu ánh-sáng thật sâu xuống dưới nước. Những điều-kiện này tạo môi-trường lư-tưởng cho san-hô sinh-tồn và phát-triển ở độ sâu hàng trăm thước.

 

4.6 – HẢI-LƯU.

Hải-lưu là ḍng nước chảy ở giữa biển mà nguyên-nhân chính phát-sinh là gió, sau đó là sự khác-biệt về tỷ-trọng, nhiệt-độ nước biển, sự quay của trái đất, thủy-triều ...

Hải-lưu trong Biển Đông không chảy thường-trực cố-định suốt năm một chiều như các đại-hải-lưu của Thái-b́nh-Dương. Gió mùa địa-phương tạo nên những ḍng hải-lưu chuyển-vận nước theo chiều gió thổi, khi gió mùa đổi ngược chiều th́ hải-lưu chảy ngược lại.

-Trong mùa gió Đông-Bắc, hải-lưu Biển Đông chảy ngược theo chiều kim đồng-hồ. Ḍng nước biển chảy mạnh từ Đài-Loan ngang qua Hoàng-Sa vận-tốc chừng 1 gút. Khi xuống ngang bờ biển Trung-phần, vận-tốc ḍng nước tăng thêm, có khi tối-đa tới 3, 4 gút trên mặt nước. Các nhân-viên khí-tượng Việt-Nam ở Hoàng-Sa (sau vụ Nhật đảo-chính Pháp tháng 3/45) và quân-nhân Hải-Quân VNCH (sau khi Trung-Cộng tấn-chiếm đảo tháng 1/ 1974) đă nhờ nhờ ḍng nước này thả bè trôi về được tới Quy-Nhơn và ngoài khơi Cù-lao Ré để được cứu vớt. — phía Tây vùng Trường-Sa, nước chảy ngược lại như một đối-lưu hướng về phía Đông-Bắc. Vận-tốc đối-lưu thường thấp. Vùng gần Palawan nước chảy theo chiều Tây-Nam.

-Trong mùa gió Tây-Nam, hải-lưu chảy theo chiều kim đồng-hồ, từ phía Mă-Lai đi dọc bờ biển Trung-phần ra Hoàng-Sa với vận-tốc chừng .5 gút. Đối-lưu từ phía Đông của quần-đảo Hoàng-Sa chảy về Trường-Sa rất yếu.

-Hải-lưu Biển Đông không hoàn-toàn là một ṿng kín. Trong những khi gió mùa thổi mạnh, những khối lượng nước biển lớn lao được đẩy ra ngoài qua các eo biển. Vào mùa gió Đông-Bắc, nước biển Đông thoát ra Ấn-độ-Dương. Vào mùa gió Tây-Nam, nước biển thoát ra Thái-b́nh-Dương.

Theo tài-liệu trong sách Regional Oceanography, tác-giả Matthias Tomczak & J. Stuart Godfrey (Great Britain, 1994) th́ ḍng nước chảy qua chảy lại như một máy điều ḥa làm nồng-độ muối ở Hoàng-Sa và Trường-Sa trong suốt năm giữ nguyên trong mức độ 33.5%o và 33%o. Chiều nước chảy của các hải-lưu biển Đông được tŕnh-bày như trong hai h́nh dưới đây.

Như vậy quanh năm, hải-lưu vùng Hoàng-Sa và Trường-Sa thay đổi chiều hai lần. Ḍng nước vùng Trường-Sa không mạnh như ḍng nước vùng Hoàng-Sa.

Sau trận hải-chiến năm 1988 khi chiến-hạm bị ch́m, các thủy-thủ Việt-Nam Cộng-sản sống sót trên các bè nổi không trôi đi đâu xa. V́ nước chỉ chảy chừng 1/4 đến 1/2 gút, sự cấp-cứu đă được thi-hành trong "khu-vực cánh quạt" sát gần nơi hải-chiến.

 

Sea surface sailinity in the South China Sea. (a) During the southwest monsoon (August), (b) during the northeast monsoon (February). Arrows indicate the inferred direction of flow. After Wyrtki (1961).

H́nh 29- Hải-lưu và nồng-độ muối Biển Đông.

 

Sự vận-hành của hải-lưu liên-hệ đến những thay đổi về thời-tiết, khí-tượng trong vùng, gây ảnh-hưởng đến môi-trường sinh-sống của người và sinh-vật dưới biển cũng như trên bờ.

 

4.7 – NƯỚC, GIÓ VÀ NẠN DẦU LOANG.

Khi dàn khoan hoạt-động, các tàu chuyên chở dầu đi lại nhiều hơn và những ống dẫn dầu khí vào bờ khởi-sự; đây cũng là lúc người ta nghĩ đến những tai-nạn dầu loang và sự hiểu-biết về hải-lưu càng cần-thiết hơn. Các kế-hoạch pḥng-tai bao gồm nhiều giả-thuyết kèm các biện-pháp ứng-phó. Nước trôi ra sao cùng gió thổi thế nào cần được tính-toán sẵn sàng.

H́nh 30 - Các giả-thuyết dầu loang ngoài khơi Biển Đông trong hai mùa gió Đông-Bắc và Tây-Nam.

 

Các phỏng-định sau đây đặt ra với giả-thuyết vài triệu gallons dầu thô, v́ tai-nạn hay lầm-lỗi kỹ-thuật lúc khai-thác hay chuyên-chở, bị thất-thoát ra ngoài biển.

Chừng 24% số dầu đó sẽ bay hơi hay tan-biến sau 2 ngày, 42% sau 5 ngày, 45% sau 8 ngày. Bách-phân tiêu-tán này đạt đến tối-đa là 48% qua 14 ngày. Sau đó thời-tiết không c̣n ảnh-hưởng bao nhiêu và số dầu c̣n lại sẽ nằm vật vờ trôi nổi trên mặt biển. Phải qua rất nhiều thời-gian để dầu loang tự nó phân-hóa qua những phản-ứng thoái-hóa sinh-học (Biological Degradation), oxide hóa quang-năng (photo-oxidation) mà từ từ tan-biến. Khi dầu thoát ra, v́ nhẹ nên nổi và nước gió làm dầu trôi đi trên mặt biển.

Phần nặng hay chất cặn bă của dầu thường không độc-hại bằng phần lỏng của nó. Chim chóc, cua cá, cây cối... tiếp-xúc với dầu hay nằm trong lớp dầu bao-phủ sẽ bị chết hại rất nhiều. Nếu không được làm sạch sẽ đúng cách, t́nh-trạng môi-sinh trong vùng bị dầu loang chỉ trở lại b́nh-thường sau nhiều năm hay nhiều chục năm.

Chúng ta hăy xem vài giả-thuyết dầu loang dọc duyên-hải Việt-Nam theo tài-liệu của sách Atlas for Marine Policy in Southeast Asia (University of California Press, 1983):

- Dầu loang ngoài khơi Vũng-Tàu (9o 40' N, 108o E.) Nếu tai-nạn dầu loang xảy ra vào ngày 1 tháng 7 khi mùa gió Tây-Nam đang thổi mạnh, dầu loang sẽ trôi theo hướng Đông-Bắc một khoảng 600km (372hl) sau 29 ngày. Chỉ trong ṿng 14 ngày, dầu loang sẽ tràn tới vùng Cam-Ranh.

Nếu tai-nạn trên xảy ra vào ngày 1 tháng 12, trong mùa gió Đông-Bắc; dầu loang sẽ trôi theo hướng Tây-Nam một khoảng 400km (248hl) sau thời-gian 14 - 17 ngày.

- Dầu loang ngoài khơi Tây-Nam Hải-Nam (23oN, 109o E.) Bờ biển Hải-Nam sẽ bị ô-nhiễm nếu dầu thất-thoát trong mùa gió Tây-Nam vào những tháng 5, 6, 7 và 8.

Nếu tai-nạn trên xảy ra vào lúc giao mùa hay giữa mùa gió Đông-Bắc, dầu loang sẽ trôi về phía bờ biển Việt-Nam: tháng 8, vào Bắc-phần và các tháng 9, 10, 11, 12, 1, 2, 3 vào vùng Bắc Trung-phần.

 

H́nh 31 – Nếu dầu loang từ Hoàng-Sa hay ngoài khơi Hải-Nam, bờ biển Việt-Nam có cơ nguy bị ô-nhiễm nhiều hơn phía Trung-Hoa.

 

Trong tương-lai nếu Trung-Cộng khởi sự đào dầu tại Hoàng-Sa, cơ-nguy bờ biển Trung-phần Việt-Nam bị nạn dầu loang tràn ngập rất trầm-trọng, nhất là về mùa gió Đông-Bắc. Hải-lưu vùng này mạnh, đôi khi vượt 30hl một ngày. Dầu loang có thể tràn đến khu Cù-Lao Ré, Quảng-Ngăi trong ṿng 10 ngày và đến Quy-Nhơn chừng 2 tuần-lễ .

 

5 – THIÊN-TAI TRÊN BIỂN ĐÔNG.

Thiên-tai Biển Đông xếp thành nhiều loại:

 

5. 1 – BĂO-TỐ.

Băo-tố có mùa. Băo Biển Đông là băo nhiệt-đới, thường xảy ra những lúc giao mùa, nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. Gió mạnh đến 90 gút. Băo giảm đi từ tháng 9 nhưng cũng vẫn c̣n đến tháng 1. Tuy vậy, vào giữa mùa gió Đông-Bắc, băo làm biển trở nên động dữ dội hơn và kéo dài trong nhiều ngày.

Người Pháp gọi tên đảo Trường-Sa là Đảo Băo-Tố (Ile de la Tempête), nhưng biển Trường-Sa cũng như toàn thể Biển Đông không phải là nơi phát-sinh những trận băo lớn vùng nhiệt-đới. Những trận Đại-phong hay Typhoon thường khởi-sự từ phía Đông của Phi-luật-Tân, di-chuyển theo hướng Tây-Bắc về phía Bắc Việt-Nam, Hồng-Kông, Đài-Loan Nhật-Bản. Không tới 1% giông băo phát sinh từ Biển Đông tiến về Hoa-Nam và cũng không tới 1% giông băo phát-sinh ngoài khơi Brunei thổi về Vịnh Thái-Lan. Có tới chừng 1 phần 3 các trận đại-phong đi từ Thái-b́nh-Dương thổi về, qua Trường-Sa và Hoàng-Sa, tiến vào bờ biển Trung-Việt và vịnh Bắc-phần.

 

H́nh 32- Băo và các thiên-tai động đất, sóng thần vùng Biển Đông.

 

Sau khi thành-lập, băo thường di-chuyển hướng Tây, nhưng rồi chuyển lên hướng Đông-Bắc, nên Nam-phần không mấy khi bị băo lớn tàn-phá.

Khi băo phát xuất từ đảo Lữ Tống đi ngang Hoàng-Sa th́ binh-sĩ đóng trên đảo thấy các triệu chứng như sau: Trời oi, khí áp xuống nhanh. Trên bầu trời xuất hiện những mây cao bay nhanh như bó lông (cirrus panachés.) Vài giờ sau bầu trời bị che phủ bởi một lớp mây rất mỏng (cirro status), mặt trời chung quanh có quầng, rồi dần dần bầu trời trắng nhạt. Sau đó đến lượt những mây thấp có h́nh vẩy cá (cirro cumulus.) Rồi đến một lớp mây đen, dày cao lối 3,000m (altostatus), tất cả trở nên đen, u ám; mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống nhanh. Trần mây thấp dần xuống (100 mét hay 50), mây bay nhanh, gió thổi mạnh từng cơn, băo đă tới...

Cường-độ gió băo có thể lối 50 gút đến 90 gút.

Khi sấm sét đă xuất hiện th́ có thể coi như cơn băo đă qua...

 

H́nh 33 – Số lượng trung-b́nh các trận băo xảy ra trong những tháng của một năm.

 

Hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa bao gồm các đảo nhỏ bé trơ trụi, không phải là chỗ tránh băo lư-tưởng. Mỗi khi các đài khí-tượng thông-báo có băo (typhoon) là các tàu thuyền thường vội vă di-tản khỏi vùng. Trường-hợp không kịp, phải cố chạy về phía Nam, làm sao nằm được trong "bán-nguyệt an-toàn" của băo. Trong thế-chiến II, Hạm-đội Hoa-Kỳ một lần đă bị thiệt-hại nặng v́ băo như vậy ở ngoài biển Phi-luật-Tân chỉ v́ phải tiếp-tục hành-quân, không kịp lẩn trốn.

Hai lần Trung-Cộng hành-quân lớn, chiếm trọn Hoàng-Sa (19 tháng 1 năm 1974) và nuốt gọn 7 đảo Trường-Sa (14 tháng 3 năm 1988), chúng đều khởi-sự ồ-ạt chuyển quân xuống Biển Đông trong mùa biển không băo tố.

Qua các tài-liệu lịch-sử, người ta đọc được nhiều lần thiên-tai khủng-khiếp gây thiệt hại sinh-mạng và tài-sản cho nước ta. V́ người dân đói khổ nên quốc-gia loạn lạc. Tai-nạn ngoài Biển Đông mang đến chết chóc, mất tích, tản-lạc cho ngư-phủ như:

* Vào đầu thế-kỷ 18, băo thổi thuyền bè của đội Hoàng-Sa ra biển sang Hải-Nam. Hai nhân-viên được người Tàu cứu và được trả về sau đó.

* Vào thời Nam-Bắc phân-tranh, khi hai hạm-đội chuẩn-bị tác-chiến th́ băo thổi tới. Chiến-thuyền đôi bên rời nhau để chạy trốn nhưng không kịp. Một số bị ch́m, một số bị thổi ra biển. Có chiếc trôi ra Hoàng-Sa, có chiếc giạt tới Hải-Nam.

Thiên-tai về băo-tố đẩy thuyền ra Hoàng-Sa cũng là một yếu-tố để chứng-minh dân địa-phương như người Việt chúng ta đă đến Hoàng-Sa Trường-Sa, do vô-t́nh hay cố-ư từ nhiều ngàn năm xưa. Người Việt cũng như các người Đông-Nam-Á khác đă khám-phá các đảo ngoài Biển Đông ngay từ khi phát-minh ghe thuyền, không chờ đợi đến khi người Trung-Hoa hàng ngàn vạn dặm xa-xăm đến đây để ghi công hăo!

 

5.2 – NHỮNG HIỆN-TƯỢNG THIÊNG-NHIÊN KHÁC.

Ngoài băo-táp là thiên-tai khủng-khiếp nhất, các vùng đất Đông-Nam-Á nằm ngoài đại-dương c̣n trải qua một số các thiên-tai khác như, động đất, núi lửa, đất trùi, sóng thần, lụt lội v.v... 

 

5.2.1 – SÓNG THẦN.

Ngoài khơi Việt-Nam, tuy có một số chấn-động địa-chất ngầm dưới biển xảy ra ngay trong thế-kỷ thứ XX nhưng đă không gây nên một thiệt-hại nào. Vùng Hoàng-Sa và Cù-lao Thu ghi-nhận ít nhất 6 lần địa-chấn. May mắn không có cơn sóng thần nào tàn-phá duyên-hải nước ta.

Sóng Thần (Tsunamis) gây nên bởi những trận động đất dưới ḷng biển sâu. Sóng thần không do gió phát-sinh và v́ chúng có độ dài sóng rất lớn nên mắt thường của chúng ta không thể nhận ra được khi sóng thần c̣n ở ngoài biển rộng. Chấn-động của cơn địa-chấn truyền đi trong ḷng biển với vận-tốc nhanh tới 400 - 500 gút. Trên mặt biển, đó là những làn sóng chỉ cao đến vài ba bộ Anh nhưng chiều dài tới trên 100 hải-lư. Tuy thủy-thủ hải-hành trong khu-vực động đất không nh́n thấy sóng nhưng thường cảm thấy tàu thuyền của họ bị đập mạnh một hay hai cái theo chiều thẳng đứng giống như bị mắc cạn rồi thôi.

Khi tiến đến gần bờ, v́ vận-tốc sóng vẫn cao trong khi đáy biển trở thành nông cạn, sóng bất thần bị chận lại nên trong khoảnh-khắc, biên-độ vụt gia-tăng ghê gớm. Những đợt sóng khi đó có thể cao tới 50 - 100 feet, di-chuyển rất nhanh, tàn-phá tất cả những ǵ trên đường đi của chúng, vào sâu trong nội-địa nhiều cây-số.

Hai nước Phi-luật-Tân và Nam-Dương chịu đựng liên-tiếp nhiều tai-ương về động đất. Sóng thần đă cuốn trôi nhiều làng mạc, quét sạch nhà cửa, ghe thuyền, con người và súc-vật ra biển. Các đảo phía cực đông của Trường-Sa, nằm gần với rănh sâu Palawan có thể chịu những tai-họa thảm-khốc nếu sóng thần xảy ra.

Bờ biển Việt-Nam chạy lài lài ra khơi, nước ta may mắn không tiếp giáp với một bất cứ một rănh sâu nào của đại-dương (trench) nên thoát tai-nạn những cơn sóng thần.

Việt-Nam và Biển Đông c̣n may mắn hơn nữa v́ nằm ngoài Ṿng Lửa Thái-b́nh-Dương (Cercle de Feu) là khu-vực không từng bị nạn động đất nào tàn-phá trầm trọng. Nói về sự bền vững của nền lục-địa xứ ta, Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ viết rằng "ViệtNam nằm trên khối Indosinias của vỏ Tráiđất bềnvững từ mấy trăm triệu năm nay"(Cây cỏ Việt-Nam, 1993.)

H́nh 34 - H́nh-ảnh cơn sóng thần.

 

5.2.2 – V̉I RỒNG.

Người đi biển và dân duyên hải thường thấy các cột nước bị cuốn hút lên trời mà họ gọi là rồng hút nước.

Rồng Hút Nước hay Ṿi Rồng là một hiện-tượng sáo trộn của không-khí ngoài biển, chẳng hạn như sự đụng-chạm giữa hàn-diện và nhiệt-diện khi hai luồng không-khí nóng lạnh gặp nhau.

Tương-tự như băo nhưng Ṿi Rồng xảy ra trong một phạm-vi nhỏ hẹp hơn với những đặc-điểm hơi khác-biệt như sau:

- Ṿi Rồng là một cơn lốc có h́nh-dáng như chiếc phễu, cột nước từ mặt biển bị gió cuốn xoáy cao dần lên bầu trời đầy mây đen cumulus.

- Nước của Ṿi Rồng có thể là nước mặn bị hút từ biển lên hay có thể là nước ngọt do hơi nước đọng lại thành mưa.

- Gió thổi của giông băo ở Bắc-bán-cầu xoáy theo chiều kim đồng-hồ và nghịch lại ở Nam-bán cầu. Chiều gió trong hiện-tượng Ṿi Rồng không theo quy-luật đó, gió có thể thổi theo cùng chiều hay ngược chiều với kim đồng-hồ tuỳ theo với chiều gió lúc thành-lập.

- Ṿi Rồng thường có đường kính từ vài bộ đến nhiều trăm bộ Anh, chiều cao từ vài trăm đến nhiều trăm bộ Anh. Ṿi Rồng ít khi kéo dài tới hơn một tiếng đồng-hồ.

- Sức mạnh của Ṿi Rồng thay đổi, nhẹ th́ như một con trốt cuốn bụi, mạnh th́ có thể đánh ch́m thuyền nhỏ, làm hư-hại tàu thuyền hạng trung. Dù mạnh nhất, Ṿi Rồng cũng không ảnh-hưởng mấy cho các tàu viễn-duyên, cho dù tàu có đi lọt ngay vào trung-tâm của nó.

- Thủy-thủ các tàu thuyền đi ngang Ṿi Rồng cho biết có khi thấy sâu bọ hay tôm cá rơi rớt trong mưa.

 

 

H́nh 35 - H́nh-ảnh Rồng hút nước.

 

 

6 – BIỂN ĐÔNG, NHỮNG SỰ KỲ-DIỆU THIÊN-NHIÊN.

 

Ngoài những hiện-tượng thiên-nhiên xảy ra như đă nói ở trên, Biển Đông c̣n ghi-nhận một số sự kiện đáng gọi là kỳ-diệu.

 

6.1 – SỰ KỲ-DIỆU VỀ TỪ-TÍNH.

Người đi biển phải thường-trực lo lắng nhất trong việc định-hướng và xác-định vị-trí con tàu . Trước khi la-bàn điện trở thành dụng-cụ căn-bản của chiến-hạm và thương-thuyền, kim chỉ nam và la-bàn từ đă là những người bạn trung-thành nhất của các nhà hàng-hải. Ngày nay trên những du-thuyền chạy buồm người ta vẫn cho thiết-trí la-bàn từ và trên những tàu lớn, một chiếc la-bàn từ, sau khi được điều-chỉnh cẩn-thận, luôn luôn là dụng-cụ được thuyền-trưởng tin cậy nhất, dùng để kiểm-soát những "phản-trắc bất-thường" của la-bàn điện.

 

H́nh 36 - Hải-đồ ghi-nhận độ từ-sai không đáng kể trong vùng Hoàng-Sa.

 

Khi người Việt bắt đầu dùng la-bàn trong khoa địa-lư và hải-hành, tiền-nhân chúng ta hẳn đă rất ngạc-nhiên là hướng của kim chỉ nam lại hoàn-toàn phù-hợp với hướng Bắc-Nam địa-dư.

Thiên-nhiên đă tạo nên một vài vùng biển đặc-biệt trên thế-giới mà ở đó không có độ lệch từ-tính như Biển Ả-Rập và Biển Đông. Một trong nhiều nguyên-nhân tạo nên nền văn-minh hàng-hải ở Đông-Nam-Á có lẽ cũng v́ sự nhiệm-mầu đó. Trong lúc la-bàn từ sai trệch 30, 40 độ tại nhiều nơi khác trên thế-giới, kim định-hướng của nó lại chỉ ngay đúng phương Bắc địa-dư khi con tàu tiến vào vùng Biển Đông.

Theo những tài-liệu về khoa thế-giới địa-từ, ngoài độ từ sai bằng Zéro, Biển Đông c̣n có những đặc-điểm từ-tính khác như sau:

- Biển Đông nằm trong vùng mà độ sai lệch từ không thay đổi (hay thay đổi rất nhỏ.) Hăy tưởng tượng đến sự rắc rối gây cho các nhà hàng-hải khi kim la-bàn từ sai-lệch tới 30, 40 độ mà lại c̣n biến-thiên thường-niên hàng chục phút nữa: họ sẽ phải cộng trừ, thêm hay bớt (Đông hay Tây) vào những trị-số được cho biết trước đây trong tài-liệu.

- Biển Đông lại đặc-biệt hơn v́ nằm trong vùng "xích-đạo từ". Tương-tự như trong vùng nhiệt-đới địa-dư, các la-bàn điện hoạt-động trong điều-kiện tốt nhất; các dụng-cụ trắc-định từ-tính cũng không cần điều-chỉnh nhiều những khi hoạt-động tại nơi có "vĩ-độ từ" thấp hay gần đường xích-đạo từ. Trường-hợp tàu thuyền chạy lên Bắc-cực hay đi xuống Nam-cực, la-bàn điện dần dần trở nên vô-hiệu và thành vô-dụng tại hai cực địa-dư. La-bàn từ cũng vậy, sẽ trở nên vô-hiệu ở hai cực địa-từ.

Từ khi ṿng từ-trường Van Allen bao quanh trái đất được khám-phá, khoa Địa-từ-trường tiếp-tục được nghiên-cứu học hỏi. Từ-trường ảnh-hưởng rất nhiều tới sinh-hoạt mọi loài và cả đến sinh-mạng trên trái đất. Một ngày nào đó, có thể trong vài chục ngàn năm sắp tới, hai cực Nam Bắc địa-từ sẽ đổi ngược lại thành Bắc-Nam. Biển Đông với vị-trí đặc-biệt cũng là nơi cần-thiết phải có sự quan-trắc các hiện-tượng địa-từ-trường .

 

H́nh 37 - Biển Đông không có độ sai từ và vị-trí vùng Cà-Mâu Trường-Sa nằm trên xích-đạo từ.

 

Người Tàu nhận rằng họ sáng-chế Kim Chỉ-Nam nhưng không hề biết những đặc-tính về từ-trường của Biển Đông. Sách cổ Trung-Hoa ghi rằng vùng đất mẹ đẻ của từ-thạch ở Miền Nam, họ kính-ngưỡng cầu-khẩn thần núi Linh-Sơn vùng Varella, họ sợ Hoàng-Sa hút sắt làm tàu thuyền của họ mắc cạn ở Biển Đông.

 

6.2- SỰ KỲ-DIỆU VỀ “ĐỊA-H̀NH”

Mặt biển bao phủ trái đất tưởng như bằng-phẳng và đồng đều cao-độ nhưng sự thật không phải như vậy.

Địa-cầu không đúng là một trái cầu tṛn đều mà có dạng gần với khối Ellipsoid. Địa cầu cũng hơi ph́nh ra ở phía trên xích đạo, có một vẻ nào đó giống như trái lê. Mặt trái đất lại có chỗ lục-địa, có chỗ bao bởi đại-dương, nơi cao như núi Everest (gần 9km) nơi sâu như Marianas Trench (chừng 11km) nên dẫn-lực-trường (gravitational field) không đều đặn, đường giây quả rọi thường không thẳng góc với mặt biển.

H́nh 38 - H́nh vẽ giải-thích vài sự sai lệch trong hai phương-thức địa-h́nh Geoid và Ellipsoid đối với bề cao mặt biển.

 

Trong những công-tác đo đạc địa-h́nh, tính toán vị-trí thiên-văn và mới đây nhất khi các vệ-tinh NAVSAT (Navigation Satellite System), GPS (Global Positioning System) bắt đầu hoạt-động, người ta thấy những sự sai lệch như vậy khá lớn. Mặt "trái cầu" mới dùng làm tiêu-chuẩn, sau khi điều-chỉnh dẫn-lực, được gọi là Geoid.

Phương-pháp hải-hành điện-tử vệ-tinh ngày nay rất tiến-bộ. Trong vài năm nay, những tấm bản-đồ thế-giới ghi các sai-biệt (Contour Map of Geoidal Height hay Contour Plot of Mean Sea Level Deviations) cần dùng để điều-chỉnh độ cao mặt biển và những tài-liệu chỉ-dẫn cần-thiết liên-hệ về hải-hành đă được trang-bị cho tất cả tàu thuyền đi biển.

Vùng Biển Đông, và đặc-biệt khu-vực gần duyên-hải Việt-Nam không có độ sai này trong khi vùng biển phía Nam của Ấn-Độ, các nhà hàng-hải phải trừ đi 99m và nếu tàu đi vào vùng Đông-Bắc của New Guinea, họ lại phải cộng thêm 79m mới đúng.

 

H́nh 39 - Bản-đồ ghi cao-độ mặt biển trung-b́nh. Chi-tiết vùng Biển Đông (không có độ sai) được phóng lớn.

 

Nói một cách khác đi, mặt nước Biển Đông là mặt biển có độ cao tiêu-chuẩn trong hệ-thống Geoid, trong khi mặt nước biển Ấn-Độ cao quá 99m và biển New Guinea lại thấp tới 79m. Khi làm toán về cao-độ trên mặt biển, người ta phải lần lượt trừ đi 99m và cộng thêm 79m tùy trường-hợp.

 

6.3 – BIỂN ĐÔNG, BÀ MẸ THIÊN-NHIÊN CHỐNG Ô-NHIỄM.

Bước sang thế-kỷ 21, nạn ô-nhiễm sẽ trở nên rất nguy-hại cho môi-trường sinh-sống của thế-giới. Các nơi đông dân-cư, nhiều kỹ-nghệ, lắm cơ-giới mà lại nằm trong những vùng thung-lũng như Mexico City hay Los Angeles chắc chắn bị ô-nhiễm nặng nề nhất. Về địa-thế, Việt-Nam nằm dưới chân núi cao, đất hướng ra phía biển nên may mắn hơn rất nhiều quốc-gia khác. Biển Đông giúp dân ta có nơi thông-thoáng.

Trong tương-lai khi các nước duyên-hải tiến lên thời-đại kỹ-nghệ, Biển Đông cũng sẽ bị ảnh-hưởng ô-nhiễm, nước sẽ không c̣n trong sạch, không-khí lẫn hơi độc và bầu trời rồi cũng u-ám. Nếu dân Đông-Nam-Á không bảo nhau cùng thi-hành chung những biện-pháp ngăn-ngừa đối-phó, th́ t́nh-trạng sinh sống sẽ rất tồi-tệ.

Tuy vậy khi nh́n tổng-quát, người ta thấy Biển Đông sẽ hoạt-động như một cái máy chống ô-nhiễm thần-diệu giúp con người sống mạnh khoẻ hơn. Xin xét một cách giản-dị trên hai môi-trường là nước và gió:

 

6.3.1 – NƯỚC SẠCH-SẼ.

Nhờ tiếp-giáp với hai khu-vực đại-đương rộng lớn xa các nơi kỹ-nghệ phát-triển tột cùng là Bắc-Mỹ và Âu-Châu, nước biển Thái-b́nh-Dương và Ấn-Độ-Dương vốn tinh-khiết sẽ giúp Biển Đông rửa sạch ô-nhiễm. Các đại-hải-lưu trên hai đại-dương luân-chuyển quanh năm là máy lọc mẹ trợ giúp máy lọc con là Biển Đông. Thiên-nhiên đặc-biệt là bà mẹ tốt, quét dọn sạch sẽ cái nhà Việt-Nam , làm xứ ta đẹp hơn các xứ khác trên phương-diện này.

H́nh 40 - Nước Biển Đông ô-nhiễm sẽ theo các hải-lưu của Thái-b́nh-Dương và Ấn-độ-Dương chảy đi nơi khác.

 

- Các hải-lưu Biển Đông về mùa Đông mang nước sạch từ Thái-b́nh-Dương chảy vào, đẩy một số nước ô-nhiễm qua Ấn-độ-Dương. Vận-tốc nguồn nước này rất mạnh, đặc-biệt làm cho nước biển khu-vực Trung-phần Việt-Nam rất sạch sẽ.

- Vào mùa hè khi ḍng nước chảy ngược lại, nước sạch từ Ấn-Độ-Dương lại chảy vào đẩy một số nước cũ ra phía Nhật-Bản.

 

6.3.2- GIÓ TRONG LÀNH.

Khí-hậu vùng biển từ lâu đă được biết là tốt hơn khí hậu đất liền, không khí ngoài biển có tác-dụng rất tốt cho cơ-thể của sinh-vật.

Không-khí chuyển-động tạo thành gió. Sự di-chuyển của gió cũng có tác-dụng làm trong sạch không-khí tương-tự như hải-lưu làm trong sạch nước biển. Trên Biển Đông, gió mùa Đông-Bắc và Tây-Nam luân-phiên thổi qua thổi lại quanh năm, khối không-khí mới thay-thế khối không-khí cũ. Lâu lâu một trận giông băo, đại-phong xảy ra cuốn trôi hết mọi vẩn đục tác-hại c̣n sót lại trong không khí ra vùng bắc Thái-b́nh-Dương.

H́nh 41 - Bản-đồ ghi nhận những đường di-chuyển tiêu-biểu của đại-phong. Không-khí ô-nhiễm của Biển Đông sẽ thổi hết về Nhật-Bản và Bắc-Mỹ.

 

Thường thường giông băo gây nhiều tai-ương khủng khiếp, nhưng giông băo cũng tiếp-cứu cho các lá phổi mọi loài sinh-vật Việt-Nam được hít thở tự-do hơn. Sau giông băo, khí trời lại trở nên trong trẻo như xưa!

Biển Đông hiền-ḥa, từ lâu đời trong quá-khứ và măi măi trong tương-lai, được chúng ta gọi là Biển Mẹ mà!

Xin lạm-bàn một chút nữa. Nếu t́nh-trạng trái đất suy-đồi quá, lượng ô-nhiễm tăng thêm quá nhiều, gió mùa và đại-phong đẩy không-khí dơ bẩn cho Nhật-Bản "lănh" và sau cùng, Bắc-Mỹ sẽ "hốt" tất cả !

(xem tiếp Chương7-11